HOÀNG ĐẾ ASOKA
CON NGƯỜI CỦA HÒA BÌNH &
TÌNH NHÂN BẢN
MINH CHI

Bất cứ sử
gia nào, dù là người phương Đông hay người phương Tây, dù có thiện cảm hay
không đối với đạo Phật, đều phải thừa nhận đạo Phật đã tạo ra trong con người
Asoka một biến đổi thần kỳ: Asoka, con người tàn ác (candasoka), sau khi theo
đạo Phật đã trở thành Asoka, con người thiện lành (dharmasoka), hay con người
thân thiết với thần linh (devanampiya), con người ai thấy đều vui mừng
(pyadasi)...
Hoàng đế Asoka (Hán dịch
âm A Dục) trị vì trên một nước Ấn Ðộ rộng lớn hơn bây giờ (trừ phần cực Nam của
bán đảo), vào khoảng những năm 274-237 trước Tây lịch (TL). Asoka là cháu nội
của Chandragupta, người sáng lập ra triều đại Maurya (Hán dịch là Khổng Tước).
Cha của
Asoka là Bindusara, có 16 người vợ và 101 con. Asoka chỉ có một người em trai
cùng mẹ là Tissa, về sau cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
Người ta
kể lại, được tin vua cha lâm bệnh nặng tại thủ đô Pataliputra, Asoka lúc bấy
giờ đang làm phó vương tại vùng Tây Bắc Ấn, vội vã kéo quân về, giết sạch tất
cả anh em, trừ người em đồng mẹ là Tissa, và lên ngôi vua, vào năm 329 trước
TL. Nhưng lễ đăng quang chỉ được tổ chức 4 năm sau, vào năm 325 trước TL. Sự
chậm trễ này nói lên bầu không khí bẩt bình trong triều cũng như ở ngoài dân
chúng, trước hành động tàn bạo, làm mất nhân tâm của Asoka lúc bấy giờ.
Vào những
năm đầu của triều đại mình, để củng cố thêm vương quốc, Asoka đã mở chiến dịch
đánh chiếm xứ Kalinga (nay là Orissa). Trong cuộc chiến, 10 vạn người bị giết,
15 vạn bị bắt. Cảnh tang tóc của chiến tranh đã làm cho Asoka vô cùng hối hận,
và từ đó về sau trở thành rnột Phật tử thuần thành, một vị hoàng đế của hòa
bình, của một tình cảm nhân bản, sâu sắc bao gồm cả người và loài vật.
Sự nghiệp
vĩ đại của Asoka được ghi lại bằng chính các cáo văn của ông, khắc trên các
bia đá là trụ đá, do chính ông dựng lên rải rác tại khắp nhiều nơi trên vương
quốc rộng lớn của ông, mà các nhà khảo cổ phương Tây và Ấn Ðộ đã dần dần phát
hiện được từ nửa cuối thể kỷ XIX trở lại đây.
Lịch sử
cho biết Asoka đã bãi bỏ tội tử hình trong vương quốc mình. Trong Dụ đá
Kalinga, Asoka nói : “Cũng như tôi mong cho con cái tôi được hưởng mọi hạnh
phúc và an lạc ở đời này và đời sau, tôi cũng cầu mong cho tất cả mọi người
đều cũng đưọc hưởng hạnh phúc và an lạc như vậy. Có tình hình xảy ra là có một
số ngườí bị bắt giam mà không có lý do xác đáng gi, và rất nhiều người khác bị
đau khổ vô cùng. Vì vậy mà các người phải theo con đường trung đạo, có mực
thước Nhưng sẽ không thể nào noi theo được con đường trung đạo ấy, nếu các
người còn làm nô lệ cho những tật xấu như đố kỵ, không kiên nhẫn, tàn ác, nóng
vội, thiếu chuyên sâu, lười biếng và thụ động.
Các người phải mong sao cho đừng phạm vào những tật xấu nói trên. Dụ này
được khắc ra ở đây, để cho các pháp quan trong thành phố tránh không bắt giam
dân chúng mà không có lý do xác đáng. Và cũng vì mục đích ấy mà cứ năm năm một
lần, ta gửi các phái viên đi công cán, những phái viên của ta phải có thái độ
từ ái, dễ thương, quan tâm đến sự sống thiêng liêng của mọi loài.”
Dụ trên
đây cho chúng ta biết đường lối trị dân của Asoka: Các pháp quan phải công
minh, không được bắt giam người mà không có lý do xác đáng. Vua quan tâm tới
hạnh phúc của toàn dân, như là quan tâm tới hạnh phúc của con cái mình vậy.
Asoka lên án mọi biểu hiện của đố kỵ, đàn áp, lười biếng, thụ động, thiếu
chuyên cần v.v...
Trong Dụ
thứ hai của 14 Dụ trên đá, Asoka viết: “Trong tầt cả mọi nơi của vương quốc
ta và cũng vậy trong các nước láng giềng, như các nước Cholas, Pandyas,
Satyaputra, Keralaputra. Trên đảo Tambapanni (Lanka), trong vương quốc của vua
Hy Lạp Antiochus, và cả trong vương quốc láng giềng của vưong quốc của
Antiochus. Tại khắp mọi nơi, ta đã cho dựng lên hai loại nhà thương, nhà
thương cho người và nhà thương cho súc vật.”
Copleston, trong cuốn Ðạo Phật nguyên thủy và hiện đại (Buddhism Primitive and
Present) thừa nhận rằng “Công lao xây dựng những nhà thương đầu tiên chắc
chắn là thuộc về đạo Phật” . Nhưng cần nói thêm là ngoài những nhà thương
đầu tiên cho người, Asoka còn cho xây dựng những nhà thương cho súc vật nữa!
Chúng ta biết nhà thương sớm nhất do người Tây phương xây dựng là nhà thương
Diu ở Paris (Pháp) vào thế kỷ thứ VII TL, nghĩa là khoảng 1.000 năm sau các
nhà thương của Asoka!
Lòng
thương yêu của Asoka đối với loài vật thật là có một không hai. Dụ đầu tiên
trong số 14 Dụ trên đá viết: “Ở đây không một súc vật nào được giết và hiến
tế” Trước đây, trong bếp nhà vua, mỗi ngày, hàng trăm súc vật bị giết thịt để
làm món càri. Nhưng từ nay, sau khi đạo dụ thành tín này được khắc trên đá,
thì chỉ còn đưọc giết thịt hai con công và một con nai mỗi ngày, nhưng đối với
con nai thì không thường xuyên. Nhưng từ nay trở đi thì cả ba súc vật đó cũng
sẽ không bị giết thịt”.
Trong Dụ
thứ 5 trên trụ đá, Asoka viết: “Ngay cả rơm rạ, nếu có sinh vật ở trong đó,
cũng không bị đốt. Rừng cũng không được đốt, hoặc vì sai lầm, hoặc là vì hung
bạo và tàn ác đối với sinh vật. Không được nuôi sinh vật bằng sinh vật.”
Dụ thứ hai trên đá cho biết, chính những Phật tử đã xây đựng những nhà thương
đầu tiên ở Châu Phi và Châu âu. Nhà thương cho các súc vật là sáng tạo riêng
có của đạo Phật. Các nhà thương súc vật hiện còn ở Ahmedabad, Surat và trong
nhiều thành phố khác ở Ấn Ðộ là những tổ chức còn lại, hay là được xây theo mô
hình của những nhà thương súc vật dưới triều đại Asoka. Theo bác sĩ Cumsron,
tác giả cuốn Lịch sử y học, thì nhà thương súc vật hiện còn ở Surat chính do
Asoka đầu tiên xây dựng nên. Về nhà thương đó, trong cuốn Quang cảnh xứ Ấn Ðộ,
Hamilton viết như sau: “Tổ chức đáng được chú ý nhất ở Surat là nhà thương
Cây Ða (Banyan Hospital). Ðó là một cái sân rộng , xung quanh có tường cao bao
bọc, và được chia thành những sân nhỏ tiện nghi đối với súc vật. Súc vật ốm
được chăm sóc rất chu đáo ở đây, và nếu già yếu tàn tật, thì đây cũng là nơi
an dưỡng thật tốt cho chúng. Nếu một con vật bị què chân, hay là bị thương
tật, thì chủ nó đem nó đến nhà thương và nó sẽ được chăm sóc rất chu đáo,
không phân biệt chủ nó thuộc quốc tịch hay đẳng cấp nào. Năm 1772, nhà thương
đó chữa bệnh cho ngựa, lừa, bò cái, cừu, dê, khỉ, gà, vịt, bồ câu và rất nhiều
loại chim. Kể cả một con rùa già, nghe nói đã an dưỡng ở đây từ 75 năm nay.”
Cựu Thủ
tướng Ấn Ðộ Nerhu nói rằng: “Chính gương sáng của Asoka và sự truyền bá của
đạo phật đã khiến cho tập quán ăn chay trở thành phổ biến trong dân chúng Ấn
Ðộ.” Yêu quý con người, cỏ cây và loài vật tức là thương yêu và trân trọng
sự sống, bất cứ sự sống đó biểu hiện dưới dạng gì, đó là đặc điểm riêng có của
đạo Phật mà vua Asoka đã thể hiện một cách sinh động và có hiệu quả không
những trong vương quốc của vua, mà còn trong các vương quốc khác nữa, gần và
xa, cả ở Châu Âu và Châu Phi. Ðiều này nói lên uy tín lớn lao của vua Asoka,
sức thuyết phục của chính sách hòa bình và thành tín của vua đối với các vương
quốc khác, các vị vua khác.
Thi hành
một chính sách như vậy, Asoka đã thực hiện đúng theo những lời khuyên của
chính Ðức Phật, khi Ngài tại thế, trong kinh Cakkavatti Sihananda Suttta (Kinh
Chuyển Luân Vương).
Ðúng như
vậy, lý tưởng mà Asoka theo đuổi suốt đời mình là “Ðảm bảo hạnh phúc vật chất
và tâm linh cho toàn thế giới , bao gồm cả người và sức vật và các sinh vật
khác, không những trong vương quốc của nhà vua, mà trong cả thế giới mà vua
được biết hay là có quan hệ.” (Giáo sư Bhanhrkar). Tiến sĩ Bhanhrakar cho biết
rằng “Asoka đã sử dụng sứ quán của nước mình tại triều đình các vua Hy Lạp
đương thời để phổ biến chánh pháp của Phật, phổ biến chính sách cai trị nhân
đạo của mình, cũng giống như vua sử dụng các quan chức của mình để làm công
việc đó ở trong nước...”. Vì vậy , chúng ta không ngạc nhiên rằng đạo Phật đã
ảnh hưởng tới đạo Gia Tô không những trên bình diện lễ nghi bên ngoài, mà cả
trên bình diện lý thuyết và đạo đức nữa.
Dụ thứ 13
trên đá cho biết Asoka đã từ bỏ chiến tranh theo chính sách hòa bình trong
thời điểm và hoàn cảnh như thế nào. “Khi vua Piyadasi, được các thần linh yêu
mến, lên ngôi cách đây 6 năm, vua đã chinh phục vương quốc Kalinga, có đến 150
ngàn người bị tù đày, 100 ngàn người bị giết, và một số lớn hơn nữa bị chết
sau đó. Nay vương quốc Kalinga đã bị chinh phục rồi, trong lòng vua sinh ra
mối quan tâm đối với tôn giáo, lòng quí mến tôn giáo, muốn giải quyết vấn đề
tôn giáo. Và vua hối hận về cuộc chinh phục vương quốc Kalinga. Trái lại, cuộc
chinh phục bằng tôn giáo mà hiện nay vua đang tiến hành, đem lại cho vua một
sự thỏa mãn rất lón. Nhưng sự thỏa mãn đó vẫn không đáng kể. Vì vua cho rằng,
chỉ sự thưởng phạt ở kiếp sống sau mới quan trọng hơn.”
“Ðạo
dụ về tôn giáo này được ghi lại bằng chữ viết, nhằm mục đích sau này để cho
cháu chắt ta sẽ không bao giờ tiến hành một cuộc chinh phục quân sự nào nữa .
Và nếu một cuộc chinh phục quân sự là cần thiết, thì cháu chắt ta phải tỏ ra
có lòng từ ái, rộng lượng, chỉ trừng phạt nhẹ, và phải thấy cuộc chinh phục
tôn giáo là cuộc chinh phục chân chính. Cuộc chinh phục tôn giáo đem lại kết
quả tốt trong kiếp sống này và trong các kiếp sống sau. Chúng ta phải có niềm
vui hỗ trợ cho tôn giáo. Bởi vì tôn giáo đem lại kết quả tốt trong kiếp sống
hiện nay và trong kiếp sống sau này”...
Dụ này
còn cho biết Asoka tin ở thuyết tái sinh, là một trong những chủ thuyết của
triết lý đạo Phật. Từ nay, Asoka trở thành một Phật tử thuần thành. Trong Dụ
đá Virata nổi tiếng (hiện nay được giữ lại trong Viện Bảo tàng Calcutta),
Asoka viết: “Hỡi các vị Thượng thủ tôn quý, các vị đã biết lòng quý trọng,
lòng tin tưởng của tôi đối với Phật, Pháp, Tăng lớn lao đến dường nào!
Thưa các vị Thượng thủ quý mến, mọi điều do Phật, đấng chí tôn nói đều hay
đẹp cả...”
Vua muốn
đích thân nêu gương sáng cuộc sống đạo hạnh của vua cho mọi người noi theo.
Trong Dụ trên trụ đá thứ VII, Asoka viết: “Tôi có làm bất cứ một công việc
thiện lành nào, thì dân chúng noi theo gương tôi cũng làm và sẽ làm mọi công
việc thiện lành như vậy. Và dân chúng sẽ lớn lên với những đức tính vâng lời
cha mẹ, vâng lời thầy giáo, tôn trọng bậc lớn tuổi, tôn trọng và có thái độ
đúng đắn đối với các bậc Thánh, đối đãi thân ái với những người nghèo và bệnh
tật”.
Các Dụ đá
của Asoka nói chung, không chứa đựng những giáo nghĩa cao siêu gì, mà chủ yếu
là những lời khuyến cáo có tính chất đạo đức: Tình thương người và súc vật,
lòng bao dung đối với mọi tín ngưỡng, không phải chỉ tín ngưỡng Phật giáo...
Tuy nhiên, trong Dụ Bhabra, có thể được công bố vào năm thứ 13 của triều đại
Asoka, vua có khuyến cáo Tăng chúng nên nghiên cứu một số đoạn kinh Phật, mà
chúng ta có thể nhận biết như là một phần của Kinh tạng Pàli: “Vua Magadha
gởi lời chào Tăng chúng, chúc Tăng chúng đưọc an lạc và sức khỏe. Các
Ðại Đức kính mến, các Ðại đức đã biết rõ lòng kính trọng và lòng tin của tôi
đối với Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng là sâu rộng đến dường nào. Thưa các Ðại Đức,
Thế Tôn nói mọi lời đều hay. Thế nhưng, thưa các Ðại Đức, theo quan niệm của
riêng tôi, thì có thể chỉ ra một số văn kiện đặc biệt:
1. Ðề cao giới luật.
2. Hành trạng của
các bậc Thánh vĩ đại.
3. Nỗi lo sợ điều
có thể xảy ra.
4. Bài ca của người
ẩn sĩ.
5. Ðàm thoại về
cuộc sống của người ẩn sĩ.
6. Câu hỏi của
Upatishya.
7. Thuyết pháp cho
Rahula đề tài tà kiến.
Tôi mong rằng đông
đảo Tăng Ni sẽ thường được nghe và suy tư trên những bài kinh đó. Cả những cư
sĩ cũng như vậy, nam cũng như nữ.
Vì lẽ đó, tôi cho ghi lại lời nói của tôi, để dân chúng biết rõ tôi có ý
định như thế nào.”
Dụ trên
được ghi bằng tiếng Magadhi. Văn kiện 1 “Ðề cao giới luật” chính là giới bổn
Patimokka, văn kiện 3 “Mối lo sợ điều có thể xảy ra” rút trong kinh Pancaka
Nipata thuộc Anguttara Nikàya ( Tăng Chi Bộ kinh, cuốn III). Văn kiện “Ðàm
thoại về cuộc sống của người ẩn sĩ” , nói tới cuộc sống không còn dục vọng,
cuộc sống trong đó cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều được bình lặng. Upatisya hay
Upatissa là Xá Lợi Phất hay Sariputta, một trong những đệ tử lớn nổi danh của
Phật. Ðức Phật trả lời Tôn giả Xá Lợi Phất về những nguy cơ đe dọa người tu
hành.
Bài thuyết pháp cho
Rahula (La Hầu La) có trong Trung Bộ kinh I, tr.414-420, bản Anh ngữ.
Trong một Dụ khác,
Dụ Sarnath, ông có giọng nói không phải của một Phật tử bình thường, mà là của
một vị lãnh đạo giáo hội. Trong Dụ, ông viết:
“Vâng, đúng như vậy, ngay cả đối với tôi tớ và nông dân, cũng phải cư xử
như vậy. Sự tiến bộ của dân chúng trong chánh pháp được thực hiện bằng
hai con đường, bằng nghe thuyết giảng chánh pháp, và bằng suy tư nội tâm.
Trong hai biện pháp đó, thì biện pháp suy tư nội tâm cao cấp hơn nhiều.
Hiệu quả siêu việt của biện pháp suy tư nội tâm được thể hiện trong sự tăng
trưởng lòng tin đạo của dân chúng, và trong việc hoàn toàn chấm dứt tệ giết
hại sinh vật. Tôi sẽ sử dụng các vị Tăng quan (Dharmamahamatras) để bày tỏ mối
quan tâm của nhà vua đối với các vị tu khổ hạnh cũng như các vị tu tại gia,
đối với tất cả mọi tín đồ các tôn giáo. Tôi cũng dùng họ để đảm bảo cuộc sống
hạnh phúc an lạc của Tăng già. Tôi cũng dùng họ với mục đích như vậy đối với
Bà la môn, các vị tu khổ hạnh phái Ajivikas, phái Nighantas, trên thực tế tức
là đối với tất cả mọi tu phái. Họ và các quan chức chủ yếu khác được giao
nhiệm vụ phân phối vật phẩm cúng dường của vua và các hoàng hậu, và ngay tại
triều, ở đây, tại kinh đô cũng như tại các tỉnh, các quan chức nói trên sẽ
thực hành các biện pháp khác nhau, những biện pháp sùng tín đạo giáo và bố thí
đem lại niềm an lạc. Tôi cũng thu xếp để cho các quan chức đó giúp việc phân
phối vật phẩm cúng dường của con cái tôi, của các hoàng tử và công chúa khác.
Vâng, họ sẽ được dùng để thúc đẩy mọi công việc thiện lành theo chánh pháp, để
thúc đẩy việc thực hành chánh pháp. Họ có chức trách thiêng liêng lo lắng để
cho trong dân chúng có được sự tăng trưỏng lòng nhân từ, tính trung thực, lòng
rộng lượng, trong sạch, từ hòa, thánh hạnh... Chính nhằm mục đích ấy mà đạo Dụ
này được khắc lên đá, bền lâu như mặt trời và mặt trăng để cho con cái, cháu
chắt tôi, mọi ngưòi nối dõi tôi sẽ theo đúng chánh pháp.
Bởi vì những người theo đúng chánh pháp sẽ được hưởng hạnh phúc trong đời
này và cả trong những đời sau”.
Dụ thứ 4
viết: “Nay do tôi thực hành chánh pháp, tiếng trống trận của chiến tranh
không còn vang lên nữa, mà thay vào là tiếng trống của chánh pháp.”
Sau trận
chiến thắng Kalinga, Asoka đã vô cùng hối hận và long trọng tuyên bố từ nay sẽ
loại bỏ chiến tranh trong chính sách của vương quốc mình, và thay vào đó, dùng
chánh pháp, dùng Phật pháp để chinh phục lòng người . Mà chánh pháp, đúng như
Asoka hiểu, tức là sự quan tâm đến đời sống vật chất và tâm linh của tất cả
mọi dân chúng, sự quan tâm đến đời sống của mọi loài.
“Trong tất cả mọi lúc, mọi nơi, tôi đều quan tâm đến tình hình và công việc
của toàn dân. Dù đang khi ăn, dù là ở trong phòng của hoàng hậu, trong phòng
ngủ của tôi, nơi đồng ruộng, trong xe hay trong viên, khắp mọi nơi, các quan
chức phải báo cáo cho tôi biết mọi công việc của dân chúng, và tôi lúc nào
cũng sẵn sàng giải quyết công việc của dân chúng ở khắp mọi nơi.
Tôi đã ra lệnh mọi công việc của dân chúng phải được báo cáo cho tôi biết,
ở khắp mọi nơi, bất cứ vào giờ nào. Vì rằng tôi không bao giờ thỏa mãn về sự
cố gắng của bản thân tôi. Ðúng như vậy, bổn phận cao nhất của tôi là đảm bảo
cho toàn đất nước được hạnh phúc và an lạc Không còn chức trách nào cao quí
hơn là đảm bảo hạnh phúc cho toàn dân. Và nếu tôi có cố gắng hết sức mình: thì
cũng là nhằm mục đích trả món nợ của tôi đối với tất cả moi chúng sinh, đảm
bảo cho mọi loài được hưởng hạnh phúc trong đời sống này và hạnh phúc của cõi
trời trong kiếp sống tương lai. Chính nhằm mục đích ấy mà tôi cho khắc lời Dụ
này trên đá, để cho chánh pháp mãi mãi lưu tồn, để cho con cái và cháu chắt
tôi có thể thực hành theo chánh pháp, vì hạnh phúc và an lạc cho toàn đất
nước. Nhưng đó là một mục đích khó thành tựu được, trừ phi là có cố gắng hết
sức, hết lòng mình”.
Dụ trên
cho thấy Asoka quan niệm chức trách, bổn phận của một ông vua Phật tử phải như
thế nào, cho thấy một vị vua Phật tử, trước hết, phải toàn tâm toàn ý phục vụ
cho hạnh phúc và an lạc của toàn dân như thế nào.
Dụ Maski
(địa danh nơi tìm ra Dụ đá) viết: “Thật sự như vậy, từ nay trở đi, tôi phải
lo lắng, đảm bảo cho hạnh phúc vật chất và tâm linh cho toàn đất nước. Noi
theo con đường hòa bình, tôi sẽ dắt dẫn toàn thế giới từ bỏ dục vọng đến với
hòa bình. Từ ngày tôi gặp được Tăng chúng, tự tôi, tôi đã gắng sức rất nhiều.
Hậu quả tốt của sự cố gắng không phải chỉ dành riêng cho các vĩ nhân. Nếu
anh ta muốn: thì người bình thường cũng có thể gắng sức mà vươn tới được cõi
trời hạnh phúc và an lạc. Chính vì mục đích ấy mà những lời này được công bố.
Tất cả mọi người, lớn cũng như bé, hãy cố gắng hết sức mình.”
Dụ Maski
trên đây cho thấy Asoka coi trọng và thực hành đức hạnh tinh tấn, siêng năng
như thế nào. Một ông vua Phật tử phải là một ông vua hết sức tích cực và chủ
động giải quyết mọi việc có ích lợi cho dân chúng trên cả hai mặt vật chất và
tâm linh, tinh thần. Asoka quan niệm như thế nào là con đường hạnh phúc và an
lạc. Dụ trên viết tiếp: “Phải biết vâng lời cha mẹ. Cũng như vậy, các thầy
giáo và mọi người xứng đáng phải được tôn kính. Phải thương yêu mọi loài vật.
Phải nói sự thật. Ðó là những đức tính cao cả cần được thực hành và đề cao.
Cũng như vậy, học trò phải phục vụ thầy dạy, mọi người quan hệ với nhau phải
nhã nhặn và lịch sự. Ðó là tín điều chân chính và cổ xưa, tín điều ấy sẽ giúp
sống thọ. Vì vậy dân chúng hãy hành động theo đúng tín điều này”.
Các học giả phương
Tây đánh giá cao các Dụ đá của Asoka
Các Dụ đá
của Asoka được tất cả mọi học giả phương Tây đánh giá cao.
Robert Blatchford trong cuốn
“Thượng đế và người láng giềng của tôi” (God and My Neighbor) đã viết rằng:
“... Jesus và các Cha của nhà thờ chưa từng bao giờ cấm chế độ nô lệ, chưa
từng bao giờ cấm tệ kỳ thị tôn giáo, cấm thái độ tàn ác đối với loài vật. Còn
đạo Phật trên thực tiễn đã xóa bỏ nô lệ chế và tệ khủng bố tôn giáo, dạy đức
hạnh tiết độ, cuộc sống trong sạch và lòng nhân hậu, và xây dựng được nền đạo
đức cao cấp hơn, đề cao tư tưởng toàn nhân loại đều là anh em. Các Phật tử đã
thực hành và truyền bá một tôn giáo nhân bản, một tình huynh đệ bao quát toàn
loài người trước kỷ nguyên của Jesus. Mà không phải chỉ giảng thuyết mà còn
thực hành, đó là điều mà những người đạo Gia Tô không bao giờ thành tựu được,
trước kia cũng như hiện nay.
Và hơn nữa, các Phật tử không truyền bá nhân hậu và huynh đệ của họ bằng
gươm giáo, cùm tra tấn, đinh đóng tay, củi thiêu người. Các Phật tử đã giải
phóng người nô lệ và mở rộng lòng thương của họ, bao trùm cả loài vật.
Ðạo đức của người Phật tử không ghi lại trong sách. Nó được ghi trên đá.
Không có một lý lẽ nào có thể xóa bỏ các Dụ đá của vua Asoka...”
Về các phái đoàn truyền giáo dưới
thời vua Asoka
Dưới thời Asoka, các phái
đoàn truyền giáo được gởi đến Hy Lạp, Trung á, Sri Lanka và các xứ mang tên
gọi chung là Suvannabumi (nay là bán đảo Ðông Dương).
Các nhà khảo cổ đã tìm
thấy dòng chữ khắc trên đá: Supurisasa Moggaliputtatissa. Sapurisasa là con
người thiện, con người lành. Moggaliputtabssa là vị A la hán dưới thời vua
Asoka đã lănh đạo kỳ Ðại hội kết tập kinh tạng lần thứ ba. Và sau Ðại hội này,
nhiều phái đoàn truyền giáo của vua Asoka được phái đến các nước ngoài.
Cuốn Mahavamsa, tập biên
niên sử của Sri Lanka, cho biết sau cuộc Ðại hội kiết tập lần thứ ba, bốn vị A
la hán cùng với Maijhima Thera được phái đến vùng núi Himalaya để truyền giáo.
Nhưng đến lúc sắp nhập Niết bàn thì cả bốn vị này cùng với vị trưởng đoàn trở
về xứ sở quê hương của họ. Trong hai hộp đựng xá lợi tìm thấy ở bảo tháp
Sanchi, có khắc tên hai vị: Kassapagotta , vị đạo sư của vùng Himalaya và
Majjhimagotta. Majjhima Thera chính là vị trưởng đoàn truyền giáo vùng Himalaya.
Ðoàn truyền giáo đi Sri Lanka
cũng để lại nhiều dấu vết quan trọng. Ðoàn gồm bốn vị cao tăng Itthiya,
Utthiya, Baddhiya, Sambala và vị trưởng đoàn A la hán Mahinda. Dòng chữ khắc
được phát hiện thấy tại vùng Rohana, vùng phía Nam Sri Lanka, ở nơi mang tên
Rajagala , có dòng chữ khắc trên đá bằng chữ Brahmi, cột đá dài tới 18 feet.
Có chữ dài tới 1 foot(1): “Ye ima dipa patamaya idiya agatana ulika
(Terana) hide teraha tube”. Nghĩa: “Ðây là bảo tháp, chứa xá lợi của các
Thượng tọa Itthiya và Mahinda đã đến đảo này bằng phép thần thông”.
Hai cuốn sử biên niên
Mahavamsa và Dipavamsa viết về Mahinda: “Ngài đến trên không bằng phép thần
thông”. Tất nhiên đối với các bậc A la hán, bay trên không là chuyện dễ
dàng. Nhưng Paranavitana, một trong những nhà khảo cổ học lớn nhẩt của Sri
Lanka, lại giải nghĩa đoạn câu: “Idiya Agatana” là “đến đây, vì sự an lạc của
những người dân Sri Lanka”. Có lẽ vì ông cho rằng bấy giờ, ít người tin ở các
phép thần thông, nhưng ở một đoạn sau, ông viểt thêm “Nhưng có sự giống nhau
phần nào giữa điều tôi nói ở đây với câu trong tập Mahavamsa: “Thượng tọa
Mahinda đã bay trên không từ xứ Vidisa đến”. Ðược biết sau khi Mahinda tịch,
xá lợi của ngài được chia cho nhiều nơi để cho nhân dân Sri Lanka xây bảo tháp
cúng dường. Bảo tháp đựng xá lợi của Mahinda được tìm thấy tại một nơi cách
hàng trăm dặm nơi hỏa táng ngài tại Anuradhapura. Mahintale là nơi Mahinda trú
ngụ lâu dài. Giáo sư Paranavitana nói rằng hộp xá lợi phát hiện ở đây chắc
chắn cũng là một hộp xá lợi của Mahinda. Vua Asoka và vua Tissa ở Sri Lanka,
người đồng thời với Asoka là bạn thân. Vua Tissa gởi biếu Asoka nhiều quà
tặng, toàn là châu báu và ngọc quý. Theo yêu cầu của Asoka, vua Tissa thực
hành một lễ đăng quang lần thứ hai với tên Devanampiya, nghĩa là thân thiết
đối với Thần linh. Cần nhắc rằng các vua Ấn Ðộ triều đại Maurya cũng có cùng
một danh xưng đó. Từ vua Devanampiya trở đi, trong hàng nhiều thế kỷ, các vua
Sri Lanka đều theo danh xưng như vậy. Danh xưng này là một bằng cớ về sự du
nhập sớm của đạo Phật vào đất nước Sri Lanka. Một bằng cớ nữa là cây Maha
Bodhi (cây Bồ đề) ởAnuradhapura là một nhánh của cây Bồ đề tại Maha Bodhi Gaya
bên Ấn Ðộ (Bồ Ðề đạo tràng).
Giáo sư Paranavitana, khi
phân tích bia đá ở Rajagala đã khẳng định là bia đá còn mang tên vị cao tăng
Itthiya Thera, cùng đi với Mahinda sang Sri Lanka. Sri Lanka hiện nay là trung
tâm của Phật giáo Theravada, phổ biến tại các nước Ðông Nam Á. Mahinda - người
đâu vào xứ này, vốn là một đệ tử của cao tăng Moggaliputtatissa, thầy học của
Asoka đồng thời là vị lãnh đạo cuộc Ðại hội kiết tập kinh điển lần thứ ba. Ông
là người biên soạn bộ luận nồi tiếng Kathavatthu, là nòng cốt của Luận tạng
(Abhidharma Pitaka), được kiết tập ở kỳ Ðại hội này.
Các bia đá khắc bằng chữ
Brahmi cho biết đạo Phật vào thời kỳ này được tất cả mọi tầng lớp xã hội Sri Lanka nhiệt
liệt đón chào và tiếp thu. Các quan chức lớn trong triều gọi là Upasikas và
Upasakas, tức Upasikas và Upasakas, Hán dịch âm là ưu bà di và ưu bà tắc,
nghĩa là những Phật tử tại gia nữ và nam. Hoàng hậu Anuda xuât gia và trở
thành người lãnh đạo Ni giới của Sri Lanka.
Cho đến nay đã phát hiện
thấy có khoảng 1.200 bia đá khắc chữ Brahmi, kể lại các sự kiện xảy ra ở Sri
Lanka trong thời gian từ thế kỷ IV trước TL đến thế kỷ I TL. Nội dung các bia
đó đã được địch ra và xuất bản. Chữ Brahmi tương tự như thứ chữ khắc trên các
bia và trụ đá của vua Asoka. Các bia đá đó kể về lịch sử du nhập và truyền bá
đạo Phật ở Sri Lanka.
Lúc bấy giờ, Sri Lanka đã có
hai dân tộc là dân tộc Sinhalese và dân tộc Tamil. Dân tộc Tamil từ lục địa Ấn
Ðộ di cư qua đây từ lâu đời. Họ tiếp thu đạo Phật và sống yên ổn với dân tộc
Sinhalese bản xứ. Các Phật tử người Tamil cũng cúng dường cho Giáo hội nhiều
quà tặng. Các kỷ vật của họ thường kèm theo các dòng chữ khắc: “Damida
Upasaka”, “Damada Gahapathi”, nghĩa là “của ưu bà tắc người Tamil...”. Ðạo
Phật du nhập đến đâu cũng trở thành một nhân tố đoàn kết mạnh mẽ ở đấy.
Về 5 vị vua Hy Lạp có ghi tên trên
bia đá của Asoka. Tên của 5 vị vua Hy Lạp ghi trên Dụ đá thứ 13 là:
1. Antiochos ở
Xi-ri.
2. Ptolemy Philadelphos ở Ai Cập
3. Atigonos Gonatas ở Ma xê đoan.
4. Magas ở Cyrène.
5. Alexandre ở Epire.
Antiochos Theos là cháu
của Seleuceus, biệt hiệu Nikator, nghĩa là người chiến thắng, vì Seleuceus
đánh thắng nhiều trận và lập ra vương quốc Xi-ri. Là bộ tướng của Alexandre
đại đế, Seleuceus đã nổi bật lên trong chiến dịch xâm lăng Ấn Ðộ. Sau khi
Alexandre đại đế qua đời, Seleuceus một lần nữa vượt sông lndus, đánh quân đội
của Chandragupta, là ông nội của Asoka. Nhưng Seleuceus thua trận, phải ký hòa
ước với Chandragupta, gả con gái cho Chandragupta và nhường cho ông này các
tỉnh Aria, Arachosia, Paropanisadai và Credosia.
Nhưng Seleuceus vẫn còn
trị vì trên một vương quốc rộng lớn, tàn dư của đế quốc của Alexandre đại đế.
Tương truyền, ông ta đã xây dựng 75 thành phố tại vương quốc của ông. Kế vị
Seleuceus là con trai ông, Antiochos Soter mà vương quốc kéo dài từ bờ biển
Bosphore và bờ Tây của Tiểu Á đến Indus và từ Xi-ri đến các dãy núi Jaxartes
và Pamir. Antiochos Soter mất năm 261 trước TL, để lại ngôi cho con là
Antiochos II, được người Milesians suy tôn là Theos vì ông đã có công giải
phóng họ khỏi nạn áp bức của Timarchus, một bạo chúa. Vị vua Hy Lạp được ghi
tên trong Dụ đá thứ 13 của Asoka chính là Antiochos này. Triều đại Antiochos
không được yên, vì phải chiến tranh liên tục với người Hy Lạp, và ông ta cũng
bị mất nhiều đất đai. Nhưng Asoka, vị hoàng đế hùng mạnh nhất thời bấy giờ, đã
giúp đỡ ông, và cho xây dựng nhiều nhà thương cho người và sức vật tại vương
quốc của ông.
Những phát hiện khảo cổ
học gần đây cho biết các đoàn truyền giáo của Asoka đã đến tận Ai Cập, Iran và
Palestine (theo Robert Blatchford trong God and my Neighbour). Sự kiện này nói
rõ “nguồn gốc Phật giáo” của đạo Gia Tô. Như Blatchford viết: “Con đường
truyền bá của đạo Phật đã được theo dõi từng bước một từ Ấn Ðộ đến Jerusalem”. Kinh sách Phật được tìm thấy nhiều trên đất đai thuộc đế
quốc Parthian (Ba Tư cũ), một đế quốc lớn nằm giữa Ấn Ðộ và Palestine. Bactria và Ðông bộ của
đế quốc Parthian đầy dẫy chùa chiền Phật giáo và người ta tìm thấy các đồng
tiền đúc, mang hình ảnh Phật với chữ khắc Hy Lạp.
Tên vua Ptolemy trên Dụ
dá của Asoka là Ptolemy Philadelphos, con của Ptolemy Soter và hoàng hậu
Berenice. Ptolemy Philadelphos lên ngôi năm 285 trước TL. Ông đã tham chiến
liên miên với Antiochos II. Chiến tranh chỉ chấm dứt vào cuối triều đại ông
bằng một hiệp ước hòa bình. Ông gả con gái cho Antiochos Thera. Euclid, nhà
toán học nổi danh đã sống dưới thời vua Ptolem này. Vương quốc của Ptolemy gồm
có ngoài Ai Cập ra, một bộ phận của Ethiopia, Libya và Arabia, còn có một số
các tỉnh ở Xi-ri, cùng với một số các đảo như Cyrus, Lycia, Caria và
Cyclades.
Lịch sử cho biết chính
các đoàn truyền giáo của Asoka đã đem lại cho Ai Cập và Châu Âu mô hình lý
tưởng của cuộc sống khổ hạnh. V M.Flinders viết trong cuốn “Tôn giáo của Ai
Cập cổ đại”: “Lịch sử chứng minh rằng, Ai Cập và Châu Âu đã học được ở các
đoàn truyền giáo của Asoka lý tưởng của đời sống khổ hạ nh.... Nếp sống khổ
hạnh của những người ẩn sĩ được thiết lập dưới thời vua Ptolemy và các tu sĩ ở
đây chứng minh có một lý tưởng sống mà lúc bấy giờ phương Tây chưa từng biết
tới”.
E.B.Hawell trong cuốn
“Lịch sử của nền thống trị Aryan” đã viết: “Có thừa lý lẽ để chứng minh rằng
các đoàn truyền giáo của Asoka đã chuẩn bị môi trường từ đó nảy sinh ra Gia Tô
giáo và Hồi giáo sau này”.
Giáo sư T.W.Rhys Davids
nói thêm: “Không phải quá lời khi nói rằng toàn bộ những lời dạy đạo đức
trong Phúc âm, nếu không kể các đoạn có tính chất giáo điều đều đã tồn tại
trong kinh sách Phật, xưa hơn sách Phúc âm hàng nhiều thế kỷ. Thí dụ những chủ
thuyết đạo đức tổng hợp lại trong bài “Thuyết giảng trên núi”, tất cả những gì
không dính dáng tới tín điều thần quyền, đều đã có trong ba tạng kinh điển của
Phật giáo cả rồi”.
Vượt qua Ai Cập, các sứ
giả của Asoka lập các nhà thương cho người và súc vật cũng như các công trình
công lợi khác tại xứ Cyrenaique, do vua Magas trị vì, vua này là “anh em cột
chèo” với Ptolemy Philadelphos. Ptolemy cưới con gái của Antiochos Theos, và
có con gái cũng đặt tên là Berenice.
Hai vị vua Hy Lạp còn
lại, được ghi tên trên Dụ đá số 13 là Antigonos Gonatas và Alexandre II.
Gonatas là cháu nội của một trong các vị tướng của Alexandre đại đế. Ông trị
vì ở xứ Ma-xê-đoan, nguyên trước đây là vương quốc của Phi-líp, cha đẻ ra
Alexandre đại đế. Các sứ giả của Asoka cũng dựng ra ở đây những nhà thương cho
người và súc vật.
Alexandre II là vua xứ
Epire. Con trai của Pyrrhus và Lanassa, ông ta lên ngôi năm 272 trước TL, ông
chiến tranh với Antigonos Gonatas và đánh đuổi Gonatas ra khỏi Ma-xê-đoan. Xứ
Epire cũ hiện nay là miền Nam của Albania. Epire từ Hy Lạp nghĩa là “Lục địa”
, lúc bấy giờ chỉ cho toàn bộ bờ biển phía Tây, phía Bắc của vịnh Corinthe.
Theo Aristotle, Epire là xứ sở đầu tiên của dân Hellènes tức người Hy Lạp.
Homere dùng địa danh Epire để chỉ toàn bộ bờ biển phía Tây của Hy Lạp. Epire
phía Bắc giáp Illyria và Ma-xê-đoan, phía Ðông giáp Thessalia, phía Nam giáp
vịnh Ambracian, phía Tây giáp biển Ionian. Các tù trưởng bộ tộc Molossians,
cuối cùng thống trị toàn xứ Epire, tự xưng là con cháu của Achille, đã đánh
chiếm thành Troy và truyền ngôi vua cho Molossus, là người con trưởng trong số
ba người con của Achille, vợ là Andromaque, một nữ nhân vật nổi tiếng đức hạnh
trong bản anh hùng ca Illiad.
Lý tưởng của Asoka đã thúc đẩy
Asoka làm nên sự nghiệp vĩ đại nhât là “lo lắng cho hạnh phúc vật chất
và tâm linh của toàn thế giới, bao gồm không những người mà cả súc vật và
nhũng loài vật khác, không những trong vương quốc mình, mà cả trong toàn thế
giới, mà ông được biết hay là có quan hệ”.

Chú thích:
(1) Một feet là đơn vị chiều dài
ở nước Anh. bằng 3 tấc rưỡi "
|