Chùa Trà Am
Hồ Đắc Duy

Mùa hè cách đây 46 năm khi tôi
vừa học xong lớp nhất trường tiểu học An Cựu lúc đó chúng tôi chỉ mới 12 tuổi,
tôi, Lê Ngọc Dinh và Vũ ba đứa rủ nhau đi chơi chùa Trà Am, chỉ nghe tiếng chứ
chưa biết đường nhưng ba đứa nhỏ chúng tôi vẫn quyết định khởi hành , từ sáng
tinh mơ mẹ tôi đã làm sẵn cho một vắt cơm bới và một chai nước cho thêm ba
đồng bạc cây dừa chúng tôi qua đò ở cống Phát Lát, đi ra ngã lăng Vạn Vạn gần
nhà cụ Phạm Quỳnh, lên Trường Bia rồi đến ngã ba Ngự Bình, tù đó chúng tôi hỏi
đường để vào chùa Trà Am , con đường đất nhỏ ngoằn ngoèo chạy theo chân núi
Ngự Bình , hai bên đường toàn là cây bứa , cả một rừng bứa rợp bóng cây với
các trái bứa trỉu vàng với những tàng lá che kín ánh sáng mặt trời làm mát
rượi con đường đi , lên Trà Am thì tha hồ mà ăn bứa , trái bứa chua ngọt và
chát mũ dính miêng nhưng đúa nào cũng muốn ăn , dó là kỷ niệm đầu tiên trong
đời tôi về chùa Trà Am, về sau này tôi mới biết chùa Trà Am nằm gọn ở giữa ba
hòn núi nỗi tiếng ở Huế là Núi Ngự Bình , núi Thiên Thai và núi Ngũ Phong ,
thuộc thôn Tứ Tây , An Cựu huyện Hương Thủy
Đi từ Huế lên Trà Am non 10 cây số , con đường vòng vèo qua chân núi Ngự Bình
, vừa qua một con suối nhỏ là đã tới Trà Am. Chung quanh Trà Am còn có nhiều
ngôi chùa cổ như Viên Thông , Tây Thiên , Trúc Lâm . Hồng Ân...
Muốn đến Viên Thông thì đi chừng cây số rưỡi , muốn qua Hồng Ân , Trúc Lâm thì
đi vòng qua chân núi Ngự Bình ra Nam Giao qua Tây Thiên hay đi xuống Cầu Lim
mới vào được Trúc Lâm , nhưng đi đường tắt thì nhanh hơn chỉ đi vòng qua mấy
quả đồi , mấy quả núi đá nhỏ dưới dãy núi Thiên Thai là có thể tới Hồng Ân rồi
lội qua một con suối nhỏ vòng qua một giếng đá , nước trong veo ngọt lịm mát
rượi là đến địa phận chùa Trúc Lâm
Trà Am hay là Tra Am ?
Cách đây 80 năm khi lập chùa , tổ khai sơn lấy biệt hiệu của mình đặt tên cho
chùa là Tra Am , Tra Am là do điễn tích của Trung Hoa, theo Nam Sử, Trương Phu
thuở nhỏ tên là Tra, cha ông là Trương Thiệu tên tục là Lê. Vua Tống Văn Đế
thường gọi đùa rằng: " Tra sao bằng Lê được!" Trương phu cười mà tâu rằng: "Lê
là cây trăm quả, Tra đâu dám sánh bằng!" Đời sau dùng điển tích này chỉ người
sau không bằng người xưa, ngụ ý khiêm nhường, Tổ khai sơn lấy biệt hiệu Tra Am
này tự cho mình không bằng được sư phụ. Trong di chúc để lại vị tổ khai sơn
này nói câu “Tự hận Tra bất như Lê dã"để tỏ lòng tôn kính sư phụ mình. Người
dân Huế đọc không quen được chữ Tra Am họ đọc trại ra thành chữ Trà Am lâu
ngày người ta quen gọi tên chùa là Trà Am mà quên mất nó là Tra Am với cái
điển tích cái ý nghĩa mà vị tổ khai sơn đã đặt cho nó
Chùa Trà Am khởi công xây dựng vào năm 1923, chủ nhân cùng mấy đệ tử là Trí
Uyên, Trí Hiển, Trí Giải và vài ba người giúp việc xắn tay đốn cây, chặt lá
,cuốc đất làm nền dựng chùa, giữa một mảnh đất còn hoang sơ chưa vết chân
người lui tới, lúc đầu chỉ là một mái am tranh sơ sài, phên tre được trét bằng
đất sét vàng, gian trước để thờ Phật, bên tả là nhà trai và bếp, bên hữu làm
phòng khách phía sau là thư phòng và chổ nghĩ ngơi của chủ nhân. Cảnh trí
chung quanh chùa là một bài thơ, một tác phẩm nghệ thuật hiếm có, tất cả cây
cỏ, khe suối, núi đồi, đá tảng được sắp xếp tạo dáng để khi ai đó bước chân
đến ngôi chùa này cũng cảm thấy phảng phất chung quanh một sự nhẹ nhàng bay
bổng, để tâm hồn mình trở nên thanh thản, siêu thoát trước cảnh sắc phong
quang thoát tục, ở đó con người dễ hòa mình trong sự trầm mặt của triết lý
Phật Giáo. Cái khung cảnh tuyệt vời đó cũng nói lên cái sâu sắc, cái ý nghĩa
của con đường đã chọn và cái ngộ của chủ nhân ngôi chùa.
Để đi vào chùa Trà Am phải đi ngang qua một cái cầu làm bằng thân một cây
thông to, có tay vịn chiếc cầu này vắt ngang một giòng khe nhỏ mang tên là Tẩy
Bát Lưu, Tẩy Bát Lưu có nghĩa là là giòng khe để rữa bình bát. Và chiếc cầu
mang tên một chữ trong câu cổ thi "Lược ước hoành thu thủy" hay một câu thơ
của Lục Du "tiên tiên nhất cứ thủy, vãng lai nhất lược ước" (bên bờ nước chảy
trong veo, qua về trên chiếc cầu treo hững hờ) chiếc cầu chỉ dùng cho người đi
qua, xe ngựa không qua được. Lược Ước Kiều là tên của chiếc cầu nói lên cái
phương tiện đi đến với đạo, cái thâm ý của chủ nhân ngôi chùa là "Ta chỉ đưa
người chứ không đưa xe ngựa" hãy vứt bỏ cái ngã tướng, cái chấp nê khi bước
chân vào chốn thiền môn này.
Vị chủ nhân chùa Tra Am là ai ?
Đó là công tử Công Tôn Hoài Trấp là cháu nội của Định Viễn Quận Vương con vua
Gia Long, công tử sinh năm 1879, xuất gia năm 1895 lúc vừa tròn 17 tuổi, thọ
giáo với Viên Giác Đại Sư tại chùa Ba La Mật, đạo hiệu là Viên Thành, pháp húy
Trừng Thông, để chấp nhận công tử xuất gia làm đệ tử Viên Giác Đại Sư đã bảo:
" ...thử nghĩ vài câu, nếu có cơ duyên, tôi sẽ giúp mệ xuất gia" sau khi lạy
Phật công tử Hoài Trấp viết hai câu trình Viên Giác Đại sư như sau:
Nép
bóng rèm thưa trông bóng thỏ
Thấy
trăng tròn ,tay vỗ ca xang
Sư Viên Thành đậu thủ khoa Sa Di năm 1901 tại Phú Yên, trú trì chùa Ba La Mật
từ năm 1901 cho đến năm 1923 và cũng trong năm này sư Viên Thành đã dựng lên
chùa Tra Am, 5 năm sau Sư viên tịch ở Tra Am lúc đó vừa 49 tuổi. Trước khi trở
về với cát bụi Sư đề lại mấy câu thơ:
Lão
khứ, vân hà nhất tháp tân
Tha
niên bì đãi tự tương thân
Nhàn
lai ỷ trương khê biên lập
Hà xứ
thanh sơn bất đãi nhàn
(Già rồi
xây tháp giữa non mây,
Gửi gắm
mai sau nắm xác gầy.
Chống
gậy, lúc nhàn, bên suối đứng.
Núi xanh
nào chẳng đón người đây)
Sư Viên Thành một người uyên bác về giáo lý đạo Phật, dưới sự dẫn dắt của sư
Viên Thành chùa Trà Am đã trở nên một Giảng Đường có uy tín, học tăng từ nhiều
nơi gởi đến xin thọ giáo, các khóa học thường được tổ chức vào mùa xuân hay
mùa hạ, sư Viên Thành còn tổ chức nhiều pháp vụ giảng giải Phật pháp cho các
tín đồ, kiến giải vài chổ sai lầm về nội điển trong các tăng ni... ngoài ra sư
Viên Thành cũng còn là một thi nhân, thơ văn chân thật, thâm thúy và thoát tục
và đôi bài cũng có tính cách hài hước của một người đã thoát vòng tục lụy
Kim
điện bất thắng thu
Nguyệt
tà trúc hộ lảnh
Chỉ
hữu tâm hạ phong
Khiên
duy điếu sấu ảnh
(Điện
vàng hiu hắt hơi thu,
Lạnh run
cửa trúc mịt mù gương nga,
Bên rừng
gió thổi la đà
Vén màn
thương bóng sao mà xác xơ)
hay là
bài
Xao
bãi tàn chung , hiểu vị nhân
Đằng
sàng phá nạp ủng lô huân
Gia
phong bất dụng phiền quân vấn
Mao ốc tam giam, nhất ổ vân
(Thỉnh trọn hồi chuông sáng vẫn mờ,
Ôm lò nằm sưởi áo gai xơ,
Cửa nhà đâu dám phiền lòng hỏi,
Mây trắng lều tranh phủ mịt mờ )
hoặc là
bài Lạc Diệp mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đă dịch thơ như sau :
Rì rào
cây vẳng tiếng đêm qua
Nghe
lạnh đồi thông chiếc hạc già
Vu
giáp chiều buông mưa lất phất
Động
Đình thu gợn sóng bao la
Tùng
khô chỉ sót đôi phần lá
Bàng
rợp đâu tìm một tán hoa
Lạ nỗi
đau lòng chi Tống Ngọc
Còn
hay mất, hãy mặt trời xa
Thơ văn của Sư Viên Thành được hợp lại làm thành một tập gọi là Lược Ước Tùng
Sao, trước khi mất sư Viên Thành đã trao lại tập thơ này cho đệ tử Thích Trí
Thủ, 46 năm sau khi sư viên tịch Hòa thượng Thích trí Thủ mới cho ấn hành tập
thơ này với công phu biên soạn của ông Nguyễn Văn Thoa và phần hiệu đính bình
luận, nhuận sắc của các ông Nguyễn Hữu Chương, Bửu Cầm và thi sĩ Vũ Hoàng
Chương.
Trong lời tựa Thượng tọa Trí Quang viết: ".. sách nhỏ như cái cầu nhỏ.
Nhưng chỉ nhỏ đối với người đi xe ngựa... không thể qua cầu Lược Ước mà vào
Trà Am. Dẫu rằng cái cầu ấy chỉ chân không là qua được liền. Vào Trà Am dễ mà
khó đến thế đó, huống chi vào Trà Am trong sách”"
…45 năm sau tôi trở lại thăm Trà Am. Hình ảnh và phong cảnh Trà Am không còn
như trong kỷ niệm của mình, rừng bứa ngày xưa chỉ còn lác đác cây. Bây giờ
người ta có thể đi thẳng vào chùa bằng xe honda xe hơi, chiếc cầu Lược Ước đã
không còn ai nhớ đến nữa.
Diễm phúc thay cho ai đã một lần đi chân không qua cầu để vào Trà Am!
"Ta chỉ đưa người chứ không đưa xe ngựa" câu nói của vị
thiền sư vẫn còn thấp thoáng đâu đây như một ngậm ngùi thiên cổ.
Hồ Đắc Duy

|