TỔNG QUÁT VỀ ĐẠI TẠNG KINH
Quảng Thành
NGUỒN GỐC ĐẠI TẠNG KINH
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời
giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được
lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay, làm nền tảng cho một nền văn hóa vĩ đại
với những đặc thù về mỹ thuật, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học, triết
học v.v. và trở thành nguồn sống và niềm hy vọng của nhân loại trên khắp thế
giới. Được như thế, có hai nguyên do: Thứ nhất, những lời giảng dạy của Đức
Phật phù hợp với chân lý khắp nơi và muôn đời; thứ hai do quá trình lưu giữ và
truyền bá của chư vị thánh tăng mà trong đó, những lần kết tập kinh điển và
những công trình phiên dịch kinh điển là căn bản.
Không có những lần kết tập kinh điển
và những công trình phiên dịch kinh điển thì không có Tam Tạng Thánh Điển như
ngày nay.
Chính lần kết tập thứ nhất đã hình
thành Luật tạng và Kinh tạng. Lần kết tập này được tổ chức chỉ 4 tháng sau khi
Đức Phật Niết Bàn. Luật tạng do ngài Upali (Ưu Ba Li) chủ trì và Kinh tạng do
ngài Ananda (A Nan Đa) chủ trì. Dĩ nhiên các lần kết tập kế tiếp đã bổ túc
thêm nội dung cho Luật tạng và Kinh tạng. Luận tạng được thành hình trong hai
lần kết tập thứ ba và thứ tư. Lần kết tập thứ ba do vua Asoka (A Dục) hậu
thuẩn và bảo trợ tổ chức sau khi Đức Phật Niết Bàn 218 năm (trước Tây lịch 325
năm) nhằm thanh lọc những pha trộn và phản bác những xuyên tạc của ngoại đạo
cùng lúc đúc kết các bài thuyết giảng về tâm lý, thể tính và sự tướng của vạn
pháp, tạo thành Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma). Lần kết tập thứ tư diễn ra
khoảng 400 năm sau Đức Phật Niết Bàn do vua Kanishka (Ca Nị Sắc Ca) bảo trợ tổ
chức, soạn ra được ba bộ luận nhằm giải thích kinh, luật và luận gồm ba mươi
vạn bài tụng. Theo Phật giáo Nam truyền, lần kết tập thứ tư diễn ra tại
Sri-Lanka (Tích Lan) cũng khoảng thời gian 400 năm sau Đức Phật Niết Bàn do
vua Vattagāmani bảo trợ tổ chức với thành quả là hoàn tất và viết xuống bằng
tiếng Pāli toàn bộ Tam tạng kinh điển hệ Nam truyền.
Bên cạnh những lần kết tập kinh điển
như đã tóm lược trên, những công trình phiên dịch đã đóng góp lớn trong sự
hình thành Đại Tạng Kinh, đặc biệt đối với Đại Tạng Kinh Bắc truyền. Trong khi
Đại Tạng Kinh Pāli Nam Truyền có nguồn gốc đơn giản từ giáo pháp trong đó có 5
bộ Nikāya do Đại Đức Mahinda (Ma Sẩn Đà), con vua Asoka (A Dục) đã đem khẩu
truyền ở Tích Lan thì Đại Tạng Kinh Bắc truyền có nguồn gốc từ Phạn ngữ
Sanskrit được hình thành qua một quá trình nhiêu khê gian khổ.
Cho đến thế kỷ thứ 10, Phật giáo Ấn
Độ nói chung và Phật giáo Bắc truyền Sanskrit nói riêng vẫn phát triển tốt
đẹp. Không ai có thể nghĩ rằng sau đó không lâu, đặc biệt từ đầu thế kỷ 13 trở
đi, Phật giáo xem như bị triệt tiêu hoàn toàn. Bị triệt tiêu đến độ có thể nói
Phật giáo đã vắng bóng hẳn 5 thế kỷ trên chính quê hương của mình. Các nhà
nghiên cứu đã nêu ra nhiều nguyên do, nhưng chính yếu là do sự tiêu diệt của
các bộ tộc Hồi giáo thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Với tinh thần kỳ thị, bất khoan dung tôn
giáo một cách cực đoan, cuồng tín, họ đã tàn sát những người không chịu theo
Hồi giáo, đốt phá chùa chiền, kinh điển và các cơ sở văn hóa không thuộc Hồi
giáo. Điển hình trường hợp Phật Học Viện Nālanda. Đây là một trung tâm văn
hóa, giáo dục, đào tạo danh tiếng kỳ cựu của Phật giáo ở Ấn Độ được vua
Sakrăditya (Thước-ca-la Dật-đa) thành lập trong thế kỷ thứ hai, nghĩa là trước
khi bị tàn phá hơn 10 thế kỷ, nơi lúc đông nhất có đến mười ngàn học viên, nơi
các luận sư danh tiếng của Phật giáo Đại Thừa như các ngài Vô Trước, Thế Thân,
Long Thọ giảng dạy, nơi ngài Huyền Trang, Pháp Hiền, Nghĩa Tịnh trong thế kỷ
thứ 7 đã lưu trú tu học, nơi mà từ xưa đã nổi tiếng có một thư viện tàng trữ
nhiều sách quý và hiếm, kể cả những kinh điển Sanskrit… Chính nơi đây đã hai
lần bị các đạo quân Hồi giáo tàn phá, tiêu diệt. Lần thứ nhất, năm 1197, dưới
sự chỉ huy của tướng Mohammad Bin Bakhtyan, bộ tộc Hồi giáo Khaj thuộc Thổ Nhĩ
Kỳ đã đốt phá cơ sở, kinh sách và giết trên 8000 tu sĩ và trên 1500 vị giáo sư
tu sĩ lỗi lạc đương thời tại Đại Học Nālanda. Lần thứ hai, năm 1235, một đạo
quân Hồi giáo khác đã đốt phá và giết hại hầu như tất cả những người cư trú tu
học và giảng dạy tại đây, chỉ còn lại 70 vị Tăng sống sót phải trốn sang Nepal
và Tây Tạng. Đó là điển hình cho hầu hết những chùa chiền, cơ sở của Phật giáo
khắp nơi trên đất Ấn. Đó là lý do tại sao Phật giáo đã bị vắng mặt hoàn toàn
tại Ấn Độ suốt 5 thế kỷ. Đó cũng là lý do tại sao đại bộ phận kinh điển
Sanskrit biến mất khiến cho ngôn ngữ Sankrit, cái nôi chuyên chở kinh điển
Phật giáo Bắc truyền đã không là ngôn ngữ gốc của một Đại Tạng Kinh Phật giáo
Bắc truyền ngày nay như Pāli là ngôn ngữ gốc của Đại Tạng Kinh của Phật giáo
Nam truyền.
Tuy nhiên, cũng còn may mắn. Đại bộ
phận kinh điển Sanskrit mà phần lớn bị đốt phá, tiêu diệt ở Ấn Độ đã được bảo
lưu qua các bản dịch Tây Tạng và Trung Hoa vài thế kỷ trước đó để về sau trở
thành Đại Tạng Kinh Tây Tạng và Đại Tạng Kinh Trung Hoa.
ĐẠI TẠNG KINH
Đại Tạng Kinh hay Tam Tạng Kinh Điển
hay Tam Tạng Thánh Giáo là tên gọi chỉ cho toàn bộ kinh điển Phật giáo đã được
hệ thống hóa trong cùng một ngôn ngữ, bao gồm 3 tạng: Kinh, Luật , Luận. Từ
hai ngôn ngữ gốc được dùng để ghi chép kinh điển là Sanskrit và Pāli, kinh
điển Phật giáo hiện nay đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới nên cũng
đã có nhiều Đại Tạng Kinh với ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, do các yếu tố
hoàn chỉnh, hệ thống và ảnh hưởng lịch sử mà các Đại Tạng Kinh Pāli, Trung Hoa
và Tây Tạng có giá trị vượt trội hơn. Cần để ý rằng trong cùng một loại Đại
Tạng Kinh có những khác biệt trong mỗi ấn bản, chẳng hạn có những khác biệt
trong Đại Tạng Kinh Pāli ấn bản của Thái Lan so với Đại Tạng Kinh Pāli ấn bản
của Tích Lan. Cũng vậy, tuy được xem là Đại Tạng Kinh Trung Hoa, nhưng có
những khác biệt về nội dung giữa các ấn bản của Nhựt, của Đại Hàn, của Trung
Hoa vì khi tập thành đã dựa trên những ấn bản khác nhau trước đó của Đại Tạng
Kinh Trung Hoa.
Nam Truyền Đại Tạng Kinh
hay cũng được gọi là Thánh điển Pāli là Đại Tạng Kinh của các quốc gia
Phật giáo thuộc Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan,
Campuchia... Đây là Đại Tạng Kinh được hệ thống và hoàn chỉnh sớm nhất, không
trải qua những chặng đường phiên dịch nhiêu khê nên được các nhà nghiên cứu
Tây phương tin tưởng cho rằng gần gũi với những gì Đức Phật giảng dạy nhất.
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh:
Đây là Đại Tạng Kinh Trung Hoa được các học giả danh tiếng của Nhật tập thành
dưới triều Đại Chánh của Nhật (1912-1925) và được xuất bản trong thời gian 10
năm bắt đầu từ năm 1924 và hoàn tất năm 1934. Đây là Đại Tạng được giới học
giả nghiên cứu đánh giá là hoàn bị nhất, có thẩm quyền nhất và uy tín nhất
được xử dụng khắp nơi trên thế giới kể cả trong các Đại Học Âu Mỹ để nghiên
cứu Phật giáo. Đại Tạng này gồm 100 tập dày và lớn theo khổ tự điển, bao gồm
gần 12 ngàn quyển, chứa đựng 3360 kinh văn, luật văn và luận văn. Phần chính
của Đại Tạng là 55 tập bao gồm kinh, luật, luận, các tông phái của Trung Hoa
và Nhật Bản và những đề mục liên quan đến lịch sử, tiểu sử, mục lục. Ngoài 55
tập chính còn có 30 tập với 736 tác phẩm của người Nhật và 15 tập Đồ tượng.
Đại Tạng Kangyur và Tengyur:
Đây là tên gọi Đại Tạng Kinh Tây Tạng, bao gồm hơn 300 bộ kinh luận được dịch
từ Sanskrit. Kinh tạng Kangyur ghi lại những thuyết giảng của Đức Phật bao gồm
luôn cả giới luật, gồm 92 bộ với 1055 bài. Luận tạng Tangyur bao gồm các bộ
luận của các bậc Luận sư Phật giáo Ấn Độ, gồm 224 bộ với 3626 bài. Điều đáng
lưu ý là trên thực tế có nhiều kinh điển được đọc tụng, nghiên cứu, giảng dạy
hơn là số lượng đã được in trong Đại tạng. Có thể vì mất bản gốc Sanskrit nên
một số lớn các bản dịch trước đây trong thời kỳ đầu của Phật giáo Tây Tạng
không được chính thức thừa nhận. Mãi đến thế kỷ 11, mới có kế hoạch xét lại
các bản dịch và cho vào mục lục Đại Tạng Kinh. Tuy vậy vẫn còn một số lớn nằm
ngoài. Được dịch trực tiếp từ nguyên bản Sanskrit ở giai đoạn khá sớm nên Đại
Tạng Kinh Tây Tạng được các học giả đánh giá là nguồn tư liệu trung thực và
quan trọng.
CÔNG TRÌNH PHIÊN DỊCH ĐẠI TẠNG KINH ANH NGỮ
Nhằm phổ biến giáo lý đức Phật một
cách hoàn toàn, đầy đủ và trực tiếp đến thế giới nói tiếng Anh, tổ chức Bukkyo
Dendo Kyokai (BDK - Hội Truyền Bá Phật Giáo) đang thực hiện công trình phiên
dịch sang Anh ngữ và ấn hành Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Ai cũng biết rằng
không phải là một chuyện đơn giản để hoàn tất công trình phiên dịch và ấn hành
toàn bộ Đại Tạng Kinh trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, tổ chức BDK đã
quyết định tuyển chọn 139 bộ kinh điển đã được kết tập hoặc biên tập tại Ấn
Độ, Trung Hoa và Nhật Bản để lập thành Bộ Thứ Nhứt gồm 100 tập. Khi phiên dịch
và ấn hành xong Bộ Thứ Nhứt, Ban Tổ chức sẽ tiến hành Bộ Thứ Hai và cứ tiếp
tục như thế cho đến khi nào hoàn tất Đại Tạng Kinh. Công trình được dự trù
muốn hoàn tất phải mất khoảng 100 năm hoặc hơn nữa và gồm khoảng một ngàn tập.
Công trình đã được bắt đầu năm 1982, đến nay đã ấn hành được 20 tập bao gồm 30
bộ kinh điển. Danh mục 139 bộ kinh điển được tuyển chọn và bản nhận định tóm
tắt nội dung của mỗi bộ được in trong quyển An Introduction to the
Buddhist Canon nhằm giúp độc giả hiểu tại sao những kinh điển
đó đã được tuyển chọn cho Bộ Thứ Nhứt. (Bản Việt dịch Đại tạng kinh nhập
môn của Thượng Tọa Thích Viên Lý đã được xuất bản năm 1999) Tổ chức
Bukkyo Dendo Kyokai được Pháp sư Tiến sĩ Yehan Numata thành lập năm 1965 có
nhiều sinh hoạt nhằm truyền bá Phật giáo trong đó có dự án đầu tiên đã được
thực hiện từ năm 1966 là tính cho đến nay có gần 6 triệu bản cuốn The
Teaching of Buddha đã được phổ biến bằng cách đặt trong các phòng
khách sạn tại hơn 50 quốc gia trên thế giới. Cuốn sách này đã được dịch ra 37
thứ tiếng. Tâm niệm của tổ chức này là bằng hết khả năng của mình, truyền bá
Phật pháp đến khắp nơi trên thế giới mà không phải trình bày chủ thuyết của
bất kỳ hệ phái, tông phái nào.
THAY LỜI KẾT: Cầu Nguyện Cho Đại Tạng Kinh Việt
Nam Sớm Thành Hình
Tinh thần của những người Phật tử
trong tổ chức Bukkyo Dendo Kyokai như vừa được trình bày trên đây thật đáng
ngưỡng mộ. Quốc gia của họ (Nhật Bản) đã có Đại Tạng Kinh – không phải một mà
nhiều ấn bản. Họ không dừng lại ở đó. Từ nhiều thập niên qua, họ đã có rất
nhiều chương trình, kế hoạch đã được thực hiện để lời của Phật đến được khắp
nơi trên thế giới. Đúng là họ đang theo bước đại nguyện "chúng sinh vô biên
thề nguyện độ".
Đáng lý chúng ta đã có Đại Tạng Kinh
Việt Nam – và dù như thế cũng đã là muộn – so với các Đại Tạng Kinh của các
quốc gia lân cận Trung Hoa, Thái Lan, Cam Bốt, Đại Hàn, Nhật Bản… Lịch sử
truyền bá Phật giáo tại Việt Nam so ra cũng không ngắn hơn lịch sử truyền bá
Phật giáo tại các quốc gia này.
Khoảng giữa năm 1973, Hội đồng Giáo
phẩm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất đã quyết định thành lập
Hội đồng Phiên dịch Tam tạng gồm quý Hòa thượng Trí Tịnh, Trí Quang, Minh
Châu, Đức Nhuận, Bửu Huệ, Trí Thành, Quảng Độ, Nhật Liên, Thiện Siêu, Huyền
Vi, trong đó, Hòa Thượng Trí Tịnh là Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu là Phó
Trưởng ban và Hòa thượng Quảng Độ là Tổng Thư Ký. Sau đó Hội đồng mời thêm quý
Hòa Thượng Đức Tâm, Huệ Hưng, Thuyền Ấn, Trí Nghiêm, Trung Quán, Thiền Tâm,
Thanh Từ và Thượng tọa Tuệ Sĩ. Qua các phiên họp liên tục trong các ngày 20,
21 và 22 tháng 10 năm 1973, Hội đồng đã thảo luận và đúc kết chương trình và
phương thức làm việc trong đó có: Duyệt xét và bổ túc mục lục kinh điển đã
phiên dịch; Soạn thảo thư mục phải phiên dịch; Cách thức phiên dịch, Phân công
phiên dịch, Hội Đồng kiểm duyệt… kể cả dự án xây dựng trụ sở mà trên cổng
chính sẽ đề: PHÁP BẢO VIỆN – Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng (và lưu ý chỉ đề chữ
Việt). Những ai quan tâm đến Phật sự này đều thấy rằng với thành phần nhân sự,
với chương trình và cách thức làm việc của Hội đồng, Đại Tạng Kinh Việt Nam
chắc chắn sẽ thành hình. Nhưng khoảng thời gian đó là đã gần cuối năm 1973… Có
thể nói rằng, một bất hạnh cho Phật giáo Việt Nam do chiến tranh và những bất
ổn chính trị, xã hội mang lại là đã không có Đại Tạng Kinh Việt Nam sớm hơn.
Trong hơn 10 năm qua, một số chư tôn
đức trong nước đã miệt mài phiên dịch kinh điển để đóng góp vào sự hình thành
Tam Tạng Thánh Điển Việt Nam. Riêng Hòa thượng Minh Châu đã hoàn thành công
trình phiên dịch 5 bộ Nikāya (Ngũ Bộ Kinh) là toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo
Nam truyền. Thật là một đạo nghiệp kỳ vĩ. Xin thành tâm đảnh lễ Hòa thượng.
Tháng 10 năm
2002
Quảng Thành
|