Ðối Thoại Trong Im Lặng
& lời bình của Nguyên Si
Tại một ngôi chùa kia, có hai
sư huynh đệ trụ trì. Người anh thì thông minh uyên bác, nhưng người em thì đã
dốt đặc cán mai, lại chỉ còn có một con mắt. Một hôm, có một nhà sư đi ngang
qua chùa và xin cho ở đậu. Tục lệ thời bấy giờ là muốn được đón nhận vào chùa,
người khách phải toàn thắng người chủ trong một cuộc so tài về giáo lý. Nhà sư
khách xin được so tài về giáo lý. Người anh mệt mỏi vì học kinh điển suốt
ngày, nên nhờ người em ra thay mặt mình. Ông quá biết rõ sự ngu dốt của em
mình, nên dặn dò rất kỹ lưỡng:
- "Ðệ nhớ cứ giữ im lặng là
hơn cả"
Người em vâng lời, và bước ra
ngồi đối diện với người khách. Chẳng bao lâu, người khách chạy đến tìm người
anh, mắt tròn xoe, và nói:
- "Xin thán phục! Sư đệ ngài
quả là tinh thông giáo lý! Tôi xin chịu thua rồi"
- "Vì sao vậy?", người anh
đưa mắt hỏi.
- "Ðây, để tôi kể cho ngài
nghe cuộc đối thoại bất hủ này! Ðầu tiên, tôi giơ một ngón tay lên, để chỉ Ðức
Phật, đấng Từ bi Giác ngộ. Sư đệ ngài liền giơ lên hai ngón tay, ý nói Ðức
Phật và Giáo lý của Ngài không thể nào tách rời nhau được. Tôi liền giơ lên ba
ngón tay, tượng trưng cho Tam Bảo là Phật-Pháp-Tăng. Thì tuyệt diệu thay! Sư
đệ ngài liền xòe bàn tay phóng lên không trung, để phá tan tất cả và thu Chân
Không vào một mối! Giáo lý của các ngài đã đạt tới mức Thượng thừa! Tôi xin
bái phục, và cũng xin hẹn ngày sau tái ngộ"
Người khách bỏ đi rồi, thì
chỉ một lát sau người em hùng hổ chạy tới:
- "Ðâu? Hắn đâu rồi?"
- "Hình như đệ đã thắng hắn
rồi phải không?", người anh hỏi.
- "Thắng cái khỉ khô! Ðệ sắp
cho hắn một trận bây giờ đây này..."
Người anh ngạc nhiên hỏi
nguyên do. Người em trả lời, giọng ấm ức:
- "Huynh có thể nào tưởng
tượng, hắn hỗn xược đến thế này là cùng. Ðầu tiên, hắn mỉm cười chế riễu đệ,
và giơ một ngón tay lên chê là đệ chỉ có một mắt. Ðệ cố nén giận, vì nghĩ dù
sao mình là chủ, hắn là khách, cũng nên giữ lễ với hắn một chút. Nên đệ giơ
hai ngón tay lên mừng cho hắn còn đủ hai mắt. Nhưng quá quắt thay! Hắn lại giơ
lên ba ngón tay, ý nói cả hai người cộng lại cũng chỉ có được ba con mắt! Tới
đó, đệ không còn chịu nổi nữa, liền vung tay lên định ban cho hắn một chưởng
thì hắn vùng bỏ chạy mất..."
(*)
Lời bình của
Nguyên Si
Tục ngữ ta có câu:
"Ông nói gà, bà nói vịt", thiết tưởng rất thích hợp với câu chuyện trên đây.
Nhưng gà với vịt còn có thể nấu nướng như nhau, chứ Phật Pháp Tăng và con mắt
chột của nhà sư thì làm sao mà bỏ chung vào một lò được? Cũng vì vậy mà trong
chùa nọ suýt xẩy ra một trận đấu chưởng kinh hồn!
Nguyên Si tôi le
lưỡi, lắc đầu, gãi tai, mà than thở: Ôi! cuộc đối thoại trên có phải chăng là
một cuộc đối thoại giữa hai nhà sư đi tìm Chân Lý, hay rốt cục cũng chỉ là hai
cuộc độc thoại của hai tâm hồn bị ám? Sự cảm thông giữa những con người mới
thật là khó khăn thay! Cũng như mỗi khi bàn chuyện Thiền, Nguyên Si muốn nói
bao nhiêu điều với độc giả. Nhưng nặn óc ra lời rồi, mà ngòi bút những ngập
ngừng trên giấy trắng, chẳng hiểu rồi đây độc giả có cảm thông cho hay chăng?
Thở than xong, thì
lại trộm nghĩ: phàm ở đời, muốn cảm thông nhau, thì chỉ có hai cách là nói và
không nói (theo nghĩa rộng). Nói tức là dùng một phương pháp biểu tượng để
diễn đạt tư tưởng của mình. Thường tình, người ta dùng lời nói (ngôn ngữ), chữ
viết (văn tự), hoặc nếu không nói không viết được (hay lười nói lười viết),
thì dùng dấu hiệu (hiệu ngữ). Nhưng trong trường hợp nào cũng dùng một cái này
để chỉ định một cái kia. Do đó, thật là một phương pháp vô cùng thiếu sót, một
chiếc cầu thông cảm mỏng manh và tạm bợ. Xin kể một câu chuyện vui, xảy ra tại
một trạm xe lửa bên Anh. Một bà già nghễnh ngãng hỏi người xếp ga:
- "Xe lửa đi Luân đôn mấy giờ
mới tới và ngừng ở đây bao lâu, thưa ông?"
- "Thưa bà, từ hai giờ kém
hai phút tới hai giờ hai phút (from two to two to two two)"
- "Chèng đéc ơi! Ông này
nghễnh ngãng thiệt. Tôi có hỏi ông còi xe lửa kêu ra sao đâu mà ông cứ tu-tu
hoài vậy"
Câu chuyện này nói rõ
được sự thiếu sót của ngôn ngữ. Nhưng dù mỏng manh thiếu sót, tạm bợ đến đâu
chăng nữa, từ ngữ cũng là một phương tiện cần thiết để tiến lại gần Chân Lý,
và gây cảm thông giữa những con người. Ðã "nhập thế cục" thì "bất khả vô văn
tự"; ngày xưa Ðức Phật cũng đã do dự nhiều trước khi thuyết pháp, nhưng rốt
cục Ngài cũng phải dùng đến ngôn ngữ. Ðối với người Phật tử, ngón tay của Ngài
tuy không phải là mặt trăng, song phải lần theo mới thấy được mặt trăng; đến
khi tới đầu ngón tay rồi, mới có thể từ bỏ ngón tay mà nhảy qua mặt trăng. Ðó
mới là giai đoạn phá bỏ mọi chấp trước vào văn tự, cũng như mọi phương pháp
giả lập. Như vậy, tu Phật là cả một công trình lâu dài, lần bước từ giai đoạn
này qua giai đoạn khác, từ "hữu luận" qua tới "vô luận" rồi mới tới "duyên
giác", đâu có phải một sớm một chiều mà đã thấu được lẽ Chân Không!
Riêng về các phương
tiện diễn đạt tư tưởng hay tình cảm, thì phải công nhận rằng lời nói và chữ
viết đích xác, tinh vi hơn dấu hiệu nhiều lắm. Dùng dấu hiệu thay từ ngữ, tức
là muốn trở lui về thời kỳ thượng cổ! Thật vậy, mỗi lời, mỗi chữ chỉ có thể
chỉ định một vài khái niệm, trong khi đó mỗi cử chỉ có thể chở theo hàng trăm
ngàn ý nghĩa, tùy theo trí tưởng tượng của con người, nhất là những con người
bệnh hoạn, mê sảng, bị ám, như hai nhà sư trong câu chuyện nói trên. Nhà sư
chột mắt mang nặng mặc cảm về sự chột mắt của mình, nên nhìn đâu cũng ra sự
chê bai, chế riễu: dù là giơ ngón tay hay vẫy ngón chân, vỗ bụng hay rung đùi,
tất cả sẽ được thâu vào con mắt chột oái oăm. Nhà sư kia thì lại bị ám ảnh bởi
những giáo điều, nên nhìn đâu cũng ra giáo lý "cao siêu": một là Phật, hai là
Pháp, ba là Tam Bảo, bốn là Tứ Ðế, năm là Ngũ Minh, sáu là Lục Nhập, bảy là
Thất Bồ Ðề Phần, tám là Bát Chánh Ðạo, v.v... (cứ như thế cho đến tận tám vạn
bốn ngàn là Bát vạn tứ thiên Pháp Môn).
Như vậy, theo ý
Nguyên Si, nếu có nói, thì hãy tránh dấu hiệu, dùng ngôn ngữ, cho đích xác,
cho hợp lý, cho thông dụng, tránh những từ ngữ mơ hồ - chỉ định rất nhiều mà
thật ra không chỉ định gì cả. Nhất là cố gắng cởi bỏ mặc cảm, thành kiến trong
khi đối thoại. Mới nói như vậy thì cảm thấy dễ, nhưng thực hành mới thấy là
khó vô cùng. Còn nếu không nói? Nếu không nói, thì tức là giữ im lặng. Im lặng
cũng có thể cảm thông được. Hơn nữa, im lặng, nếu tuyệt đối, vì không còn
thuộc vào thế giới hiện tượng mà đi sâu vào bản thể, nên sẽ có thể dẫn tới
Chân Lý tuyệt đối. Nhưng phải kể đến những loại im lặng giả hiệu.
Ðiển hình cho loại im
lặng giả hiệu đầu tiên là câu chuyện "đối thoại trong im lặng" trên. Các nhà
sư trong câu chuyện đều hiểu sai chữ "tĩnh". Thật tình, họ không im lặng chút
nào vì chính tâm hồn họ còn bị xáo trộn bởi những mặc cảm, sự giận hờn, lòng
tranh chấp.
Loại im lặng giả hiệu
thứ hai là loại lợi dụng cái im lặng trong sáng, để che đậy một cái im lặng
vẩn đục. Ta nhớ tới người xưa đã có câu: "Kẻ cực hiền giống như kẻ cực ngu"
hay "Người biết thì không nói"... Thật vậy: kẻ cực ngu không biết gì hết nên
dĩ nhiên phải im lặng rồi, còn người cực hiền thì đâu thấy gì đáng nói nên giữ
im lặng. - giữa hai thái cực, ngu và hiền đều lên tiếng nói. Nhưng ngu nói
ngu, và hiền nói hiền, tương đối còn dễ nhận ra, chứ trong cái im lặng thì làm
sao phân biệt được người cực hiền với kẻ cực ngu? Có lẽ vì vậy cho nên mới có
lắm kẻ lợi dụng sự im lặng đó, như lợi dụng tinh thần "bất lập văn tự" (không
dựa lên chữ nghĩa) của Thiền tông, để che đậy cái rỗng tuếch, ngu xuẩn của
mình! Than ôi! Nếu có phải than về Thiền tông, thì Nguyên Si tôi sẽ than như
vầy: Ôi! Thiền quả là một nơi lẫn lộn vàng thau; một nơi mà lắm kẻ bịp bợm tha
hồ dựa lên tinh thần "vô niệm", "pháp chấp" mà tung hoành, lấn áp lên những
tinh thần thanh tịnh, cao minh. Họ thẳng tay dán nhãn hiệu "Thiền" vào những
lời nói, những hành động phi lý nhất, và dần dần "Thiền" sẽ có thể bị đồng hóa
với "lẩn thẩn", "điên rồ"...
Nhưng còn im lặng
thật sự? Im lặng thật sự, thì còn gì đáng nói nữa...
Xin mượn, để kết
luận, một bài thơ của Ðiều Ngự Giác Hoàng, sư tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên tử,
đời Trần, tả một cuộc "đối thoại" trong im lặng, đầy thi vị và giải thoát:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ
trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân
phi.
Khách lai, bất vấn nhân gian
sự,
Chỉ bạng lan can khán thúy
vi. (1)
Dịch thơ (Ngô tất tố):
Chim hót dễ dà, liễu tả tơi
Thềm hoa mây phủ bóng nhà
dài.
Khách vào, chẳng hỏi niềm
nhân sự,
Tựa bức lan can, chỉ ngắm
trời.
Nguyên Si
(*)
Dịch thoát theo quyển "101 chuyện Thiền" ("Zen flesh, Zen bones") do Paul Reps
soạn.
(1) Bông
liễu nở đầy, chim hót chậm rãi. Trước bóng thềm nhà trồng hoa, mây chiều bay
lơ lửng. Khách đến thăm, không hỏi đến việc đời, việc người. Mà chỉ tựa lan
can, ngắm bầu trời xanh biếc. |