
CUỘC ĐỜI THÁNH GANDHI
(02/10/1869 – 30/01/1948)
LÊ BÍCH SƠN
Nhân ngày cả nước Ấn Độ và Đảng Quốc
Đại Ấn Độ tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 134 của Thánh Gandhi (ngày 2 tháng
10 năm 2003), xin gởi đến quý độc giả gần xa đôi nét sơ lược về cuộc đời Thánh
Gandhi.
Thánh Gandhi tên thật là MOHANDAS
KARAMCHAND GANDHI, chào đời vào sáng ngày 2 tháng 10 năm 1869 trong một căn
nhà nhỏ tại Porbandar thuộc vùng Kathiawad - một vùng biển phía Tây Ấn Độ -
thuộc Bombay. Thân phụ Mohandas Karamchand Gandhi tên Karamchand Gandhi, thân
mẫu là bà Putlibai, gia đình Gandhi thuộc giai cấp thương gia (Vaishya, đẳng
cấp thứ 3 theo đạo Hindu). Sử sách còn ghi lại: Ông nội của Mohandas
Karamchand Gandhi là Uttamchand Gandhi, một thương gia nổi tiếng của vùng
Porbandar. Mohandas Karamchand Gandhi là con út trong gia đình có sáu người
con, song thân thường gọi cận bé trai út này là “MONIYA” (cục cưng) thể hiện
sự triều mến nhất trong sáu đứa con của mình.
Năm Mohandas Karamchand Gandhi lên Bảy
(7 tuổi) gia đình chuyển đến vùng Rajkot. Tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi được
gởi đến học tại một trường tiểu học trong vùng cùng với anh trai của mình.
Mohandas K. Gandhi vốn xuất thân từ một gia đình thuộc gia cấp thương gia, nên
những đứa trẻ cùng lớp đều tìm cách xa lánh và cắt đứt mọi tiếp xúc, dù rằng
Mohandas K. Gandhi là một hoc sinh rất khá và sáng giá của trường.
Một ngày kia, trông thấy Aku - một
người bạn cùng lớp – đi ngang qua nhà, Mohandas K. Gandhi bảo Aku đợi và chạy
vào bếp lấy một ít bánh ngọt tặng Aku với mong muốn được làm quen với người
bạn thuộc diện “khó tiếp xúc” (untouchable) này. Niềm vui như bị tan biến khi
Mohandas K. Gandhi đối diện với sự thật, “Cậu không nên đến gần tớ” Aku van
xin, Mohandas K. Gandhi liền hỏi “Tại sao không? Tại sao con người không thể
đến gần con người?”, “Bởi vì tớ là một người giai cấp thấp, con của một gia
đình ở đợ” Aku buồn bã trả lời. Mohandas K. Gandhi chụp tay Aku và đặt những
miếng bánh ngọt vào đó, Aku không nói lời nào quay mặt vụt chạy. Bà Putlibai
từ cửa sổ chứng kiến sự việc, nhẹ nhàng gọi Mohandas K. Gandhi vào phòng bảo:
“… Những người thuộc giai cấp cao theo đạo Hindu (high-caste Hindu) không nên
tiếp xúc, va chạm đến những kẻ cùng đinh”, tất nhiên là Mohandas K. Gandhi
không chấp nhận điều này, bởi vì “… không có gì khác nhau giữa con và Aku”. Bà
Putlibai đáp lại bằng sự im lặng và bảo Mohandas K. Gandhi đi tắm. Rất nhiều
những người cầm bút đồng ý rằng sự im lặng của bà Putlibai là thái độ của sự
đồng ý…
Thời đó, tục lệ tảo hôn vẫn còn duy trì
ở Ấn Độ, gia đình buộc Mohandas K. Gandhi phải lấy vợ ở tuổi 13. Người bạn đời
của Mohandas K. Gandhi được chọn bởi dòng họ Gandhi là cô Kasturbai tại
Porbandar, cũng ở tuổi 13… Một tiệc cưới linh đình diễn ra với nhiều người
tham dự, người ta chúc mừng cặp “Tân lang tân giai nhân” này rất nhiều hoa
thơm và lá chuối… Ông Karamchand Gandhi tạ thế ba năm sau ngày cưới của đứa
con út Mohandas K. Gandhi (tức năm Gandhi 16 tuổi).
Sau khi tốt nghiệp chương trình Trung
học, Mohandas K. Gandhi được trúng tuyển vào Đại học Samaldas (Samaldas College) tại Bhavgagar. Sau một học kỳ tại Đại học Samaldas, Mohandas K. Gandhi
gặp một số khó khăn, Mohandas K. Gandhi quyết định thôi học trở về nhà làm
việc phụ giúp gia đình. Thân mẫu và bào huynh của Gandhi không chấp thuận điều
đó, họ đã khuyên nhũ, động viên Gandhi phải đi lên bằng con đường học vấn và
tạo mọi điều kiện để Gandhi có thể sang Anh Quốc du học. Ngày 4 tháng 9 năm
1888, Mohandas K. Gandhi rời Bombay sang Anh Quốc trên một
chuyến thuyền buôn trong trang phục của một người Tây phương.
Tại Luân-Đôn (London), Mohandas K.
Gandhi được Tiến sĩ P.J.Mehta - một người bạn của cha mình - tận tình giúp đỡ.
Tiến sĩ P.J.Mehta đã ân cần hướng dẫn Mohandas K. Gandhi mọi sinh hoạt và cách
thức thích ứng với “phong cách Tây âu” (European manners). Mohandas K. Gandhi
bắt đầu học thêm tiếng Pháp với quyết tâm theo học ngành Luật của Đại học tổng
hợp Luân Đôn. Lần thi tuyển đầu tiên, Mohandas K. Gandhi vượt qua các môn Pháp
ngữ, Anh ngữ, Hoá học nhưng lại bị “kẹt chân” ở môn La-Tinh (Latin), tình thế
“kẹt chân” này được cứu vãn ở “kỳ thi vớt” sau đó. Tháng 11 năm 1888, Mohandas
K. Gandhi chính thức trở thành sinh viên Luật khoa của Đại học tổng hợp Luân
Đôn. Mohandas K. Gandhi kết thúc khoá học và chính thức nhận văn bằng tốt
nghiệp vào ngày 10 tháng 6 năm 1891, với bảng điểm xếp hạng khá. Sau đó hai
ngày, Mohandas K. Gandhi lại theo thuyền buôn trở về Ấn Độ. Trong thời gian ba
năm lưu trú tại Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi tham gia Hội người ăn chay Luân
Đôn (London Vegetarian Society), và người ta thấy nhiều bài báo dưới bút danh
Mohandas K. Gandhi được đăng tải trên tạp chí Vegetarian (Người Ăn chay).
Thuyền cập vào cảng Bombay, Mohandas K.
Gandhi thấy những người thân trong gia đình đang chờ mình ở đó, nhưng Mohandas
không nhìn thấy hình ảnh kính yêu mà Mohandas K. Gandhi mong đợi nhất, bà
Putlibai vừa từ trần vài tuần trước đó, những người thân trong gia đình giấu
kín tin này vì sợ ảnh hưởng đến kỳ thi tốt nghiệp của Mohandas K. Gandhi. Trở
về cố hương tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi hành nghề luật sư (barrister),
nhưng những thành kiến và sự bất đồng trong bộ phận những người hành nghề Luật
tại Rajkot đã phần nào làm Mohandas K. Gandhi lâm vào tình thế khó khăn. Công
ty Dada, Abdulla & Co., - chủ công ty là một người Ấn ở Nam Phi – nhìn sự khó
khăn của Mohandas K. Gandhi như một vận hội tốt đến với mình, bèn ngõ lời mời Mohandas K. Gandhi làm luật sư đại
diện chính thức với mức lương vô cùng hấp dẫn, Mohandas K. Gandhi nhận lời mời
không chút đắn đo. Giới kinh doanh thời đó nhận định rằng: Ông chủ công
ty Dada, Abdulla & Co. thừa thông minh để hiểu Mohandas K. Gandhi nói tiếng
Anh rất lưu loát, học và hiểu rõ những luật lệ Anh quốc, hơn thế nữa Mohandas K.
Gandhi là một “cây bút bén và đa năng”. Tháng 4 năm 1893, Mohandas K. Gandhi
rời Bombay đến với phương trời mới Nam Phi (South Africa).
Cuối tháng 5 năm 1893, Mohandas K.
Gandhi đặt chân đến Durban – Nam Phi sau một chuyến hải hành đầy gian khổ. Từ
đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu công việc của mình trong cái nhìn không mấy
thiện cảm của những người dân Nam Phi. Tại Nam Phi, nạn kỳ thị chủng tộc đã
làm phần đời Mohandas K. Gandhi vốn đã gặp nhiều bất trắc lại càng trở nên
khốn khổ. Chuyện kể rằng, trên một chuyến tàu từ Durban đi Pretoria, Mohandas
K. Gandhi mua một vé tàu hạng nhất (first-class ticket), nhưng khi lên đến tàu
người phục vụ hành khách (conductor) lại dùng những lời mạ lỵ và quyết không
cho Mohandas K. Gandhi vào toa tàu như trong vé đã ghi: “Này, thằng luật sư
cu-li (làm mướn), mày không được vào trong ngồi chung với những hành khách da
trắng” (Hey, you barrister coolie, you can’t sit inside with the white
passengers). Tất nhiên là chuyện phiền phức kéo theo sau đó, Mohandas K.
Gandhi bị bỏ lại ga xe lửa trong một đêm dài tối tăm. Mohandas K. Gandhi viết
một tờ đơn gởi đến các cấp lãnh đạo, và tất nhiên không bao giờ ông nhận được
bất kỳ câu trả lời nào. Những sự kiện dồn dập, ông nhận ra sự bất công trong
nạn kỳ thị chủng tộc, ông đã viết nhiều thư, đơn, các bài viết gởi đến các cơ
quan công quyền, các tờ báo xuất bản ở Nam Phi, nhưng thái độ duy nhất mà
Mohandas K. Gandhi nhận được từ các nơi ông gởi đến là sự ngó lơ, lạnh lùng
hoặc im lặng…
Năm 1896,
Mohandas K. Gandhi xin được trở lại Ấn Độ trong vòng sáu tháng để lo thủ tục
bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ. Gandhi đặt chân đến Calcutta vào một ngày giữa
năm 1896, sau 24 ngày đêm lênh đênh trên đại dương. Từ Calcutta về Rajkot ông
đi bằng đường bộ. Gia đình Mohandas K. Gandhi đoàn tụ, bà Kasturbai và hai
người con trai của Gandhi hết sức vui mừng trong cuộc đoàn viên này. Cùng năm
này, nhiều thuận duyên liên tục đến “gõ cửa” Mohandas K. Gandhi, ông đã gặp
gỡ, tiếp xúc khá nhiều các nhà lãnh đạo Ấn Độ, giới truyền thông, như
Lokamanya B.G.Tilak của Maharashtra, Gopal Krishna Gokhale, .v.v. những quan
điểm của Mohandas K. Gandhi được tìm thấy trên vô số các tờ báo, người ta cũng
thấy sự ca tụng và ủng hộ những ý kiến của Mohandas K. Gandhi. Gandhi đã thực
sự tạo ra một “diễn đàn Gandhi” sôi nổi trong giới báo chí thời bấy giờ. Tháng
11 năm 1896, Mohandas K. Gandhi nhận được một thư khẩn, đề nghị ông khẩn cấp sang
Nam Phi vì những vấn đề nghiêm trọng của công ty. Mohandas K. Gandhi nhanh
chóng rời Ấn Độ mang theo vợ, hai con và một cháu trai (con của một người chị).
Trở lại Nam Phi (18-12-1896), Mohandas
K. Gandhi bắt đầu được những người Tây âu lưu trú lại Nam Phi hết sức quan
tâm. Gandhi đến với các hội thảo do những người Tây âu tổ chức như một “khách
mời đặc biệt”. Vợ, con, cháu của Mohandas K. Gandhi được gởi đến sống với gia
đình Rustomji; sau đó chuyển đến ở chung với gia đình ông Laughton, cố vấn
công ty Dada, Abdulla & Co. Cũng từ đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu dấn thân
vào sự nghiệp chính trị tại Nam Phi, Ông gặp gỡ và trao đổi với báo giới về
những quan điểm của mình, Mohandas K. Gandhi thành lập các hội bảo vệ người Ấn
tại Nam Phi, và một trong những điều đặc biệt được ghi lại về Mohandas K.
Gandhi trong thời gian này là ông bắt đầu ăn thức ăn chay không cần phải qua
nấu nướng (uncooked food).
Năm 1901, Mohandas K. Gandhi quyết định
hồi hương. Sau khi về đến Ấn Độ, Mohandas K. Gandhi quyết định thực hiện
chuyến tham quan toàn Ấn Độ. Ông đến Calcutta, gặp lúc Đảng Quốc Đại Ấn Độ
(Indian National Congress) tổ chức cuộc mít-tinh cho năm đó, Mohandas K.
Gandhi được người chủ tịch – ông Dinshaw Wacha - mời làm khách mời danh dự.
Chính cuộc mít-tinh này là cơ hội tốt để Mohandas K. Gandhi tiếp xúc các giới
chức lãnh đạo cao cấp trong đảng Quốc Đại, như: Pherozeshah Mehta, Lokamanya
B.L. Tilak, G.K.Gokhale,.v.v. Sau những cuộc gặp gỡ này, Mohandas K. Gandhi
tiếp tục thực hiện cuộc hành trình đi khắp Ấn Độ của mình. Sau cuộc hành trình
này, Mohandas K. Gandhi tiếp tục công việc của một luật sư tại Bombay.
Tháng 12 năm 1902, Mohandas K. Gandhi
nhận được bức điện tín gởi từ Nam Phi báo tin Joseph Chamberlain, Bộ trưởng
thuộc địa Anh Quốc (Colonial Secretary) sẽ đến thăm Natal và Transvaal (thuộc
địa của Anh ở Nam Phi). Đảng quốc đại Ấn Độ tại Natal cũng ngõ lời thỉnh cầu
Mohandas K. Gandhi là nhân vật đại diện cho cuộc tiếp xúc đó. Mohandas K.
Gandhi lên đường đến Natal kịp thời và bị viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc
tiếp đãi lạnh nhạt. Sau cuộc tiếp xúc giữa Mohandas K. Gandhi và Joseph
Chamberlain đã làm cho những người Ấn ở đó vô cùng thất vọng. Joseph
Chamberlain tiếp tục lên đường đến Transvaal, những người Ấn này một lần nữa
mong cầu Mohandas K. Gandhi đại diện cộng đồng người Ấn trình bày những nguyện
vọng và sự bất bình của họ trước viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc Joseph
Chamberlain. Tuy nhiên, khi đến Transvaal, bộ luật di trú đã có những thay
đổi, Mohandas K. Gandhi quyết định ở lại Transvaal trong một thời gian.
Tại Johannesgurg, Mohandas K. Gandhi
nộp đơn xin Tối cao Pháp viện mở một văn phòng luật sư, điều đó được chấp thuận.
Văn phòng luật sư của Mohandas K. Gandhi được ra đời tại Johannesgurg. Vào
năm 1904, Madanjit tìm đến Mohandas K. Gandhi bàn về những dự kiến cho ra đời
tờ tuần báo “Indian Opinion” (Quan điểm người Ấn). Mohandas K. Gandhi đồng ý
và xúc tiến mọi thủ tục. Tờ tuần báo “Indian Opinion” song ngữ: Gujarati và
Anh ngữ nhanh chóng đến với bạn đọc, chủ bút là Mansukhlal Naaza, Mohandas K.
Gandhi giữ vai trò Trị sự, xuất bản và phụ trách cột xã luận (editorial
column). Tờ “Indian Opinion” được độc giả và công chúng ủng hộ nhiệt liệt, vì
ở đó người ta thấy được bức tranh sống động, chân thực của những người Tây âu
bóc lột các nước thuộc địa, tiếng nói và những khó khăn của nhân dân thuộc địa
được công khai trên mặt báo, đặc biệt là những tâm tư, nguyện vọng của những
người Ấn lưu vong trên xứ sở Nam Phi trong cảnh “nước mất nhà tan”…. Cùng năm
đó, Mohandas K. Gandhi gặp gỡ H.S.L.Polar, trợ lý
tổng biên tập của tờ “The Critic” (bình phẩm, phê bình), và cả hai người cùng
nhận ra nhau họ có chung một hướng đi… Với những trợ giúp của H.S.L.Polar, tuần báo “Indian Opinion” thực sự
trở thành diễn đàn, thành cuốn “cẩm nang” cho công chúng, những đóng góp của
“Indian Opinion” không những dừng lại ở lĩnh vực chính trị mà còn mang trong
nó nhiều sắc thái khác nhau (ví dụ: mục đồng án đã làm người dân có cái nhìn
mới về thữa ruộng mình đang có”… Tờ “Indian Opinion” dời trụ sở về Phoenix gần
Durban, tại đây “Indian Opinion” thực sự trở thành một cơ sở độc lập, với đầy
đủ các trang thiết bị cho một cơ sở báo chí thời đó. Điều tất nhiên là
Mohandas K. Gandhi phải “gồng mình” với cả hai vai trò cùng một lúc: nhà báo
và luật sư. Ông quyết định đưa gia đình sang Nam Phi lần nữa… Chính vì những
công việc căng thẳng của Mohandas K. Gandhi, bà Kasturbai đã âm thầm chứng
kiến cảnh chồng bà mỗi ngày dùng một nhiều trà và cà phê, trong khi đó “thức
ăn” chính của Mohandas K. Gandhi chỉ toàn là nước lã…
Tháng 8 năm 1906, chính quyền Transvaal
ra thông báo: Tất cả những người Ấn Độ tại Transvaal phải đến khai báo các chi
tiết cá nhân, sau đó chính quyền sẽ cấp một giấy chứng nhận, tờ chứng nhận này
phải được mang theo người mọi lúc mọi nơi, phải xuất trình khi các nhân viên
chính quyền tra hỏi. Nếu không có giấy chứng nhận đó, người Ấn sẽ bị bỏ tù
hoặc trục xuất. Cảnh sát có quyền đến nhà kiểm tra bất kỳ khi nào “cảm thấy
cần”… Đứng trước thông báo này, Mohandas K. Gandhi cho đó là một điều sỉ nhục,
một sự kỳ thị chủng tộc dã man, Ông kêu gọi mọi người Ấn Độ lưu vong chống lại
thông báo đó. Và sau đó mọi người nhìn thấy Mohandas K. Gandhi “nghỉ mát”
trong một nhà tù ở Transvaal, vì lý do không có “giấy hộ thân”. Sau đó
Mohandas K. Gandhi được gởi đến Pretoria gặp tướng Smuts. Ông Tướng này tỏ
thái độ mềm mỏng hơn với lời giải thích: “Không phải tôi không thích người Ấn
Độ, tôi chỉ muốn người Ấn sống và tuân theo pháp luật”, rồi ra lệnh thả
Mohandas K. Gandhi. Ra tù, Gandhi cổ vũ một số người Ấn đến gặp các quan chức
địa phương để giải thích và đưa lên những kiến nghị. Một hôm, trên đường đến
công sở, Mir Alam dùng gậy bất ngờ đánh mạnh liên tiếp vào Gandhi cho đến khi
bất tỉnh, rồi lôi thân thể Gandhi đặt vào nhà một người Anh rất thân với
Gandhi… Thời gian này người ta ghi nhận rằng Mohandas K. Gandhi vào nhà giam
Transvaal “ngồi bóc lịch” đến ba lần. Lần thứ ba sau khi ra khỏi nhà giam,
Mohandas K. Gandhi đã tổ chức cuộc mít-tinh và gởi kháng thư đến chính quyền
Anh, thư được hồi âm, Seth Haji Habid va Mohandas K. Gandhi được mời sang Luân
Đôn để trình bày những nguyện vọng và phàn nàn của cộng đồng người Ấn tại Nam
Phi. Kết quả lại thất bại…
Tháng 10 năm 1913, Mohandas K. Gandhi
lãnh đạo hơn 6000 công nhân người Ấn đình công chống lại sự bóc lột và thuế
quan của chính quyền Transvaal tại vùng mỏ Natal. Mohandas K. Gandhi và vô số
công nhân bị bắt và bỏ tù cho vụ này. Lại một lần nữa các quan chức cấp dưới
lại cầu xin sự chiếu xét của tướng Smuts. Sự việc được chuyển đến tướng Smuts
vào tháng 12 năm 1913. Tuy nhiên trước đó, các nhân viên người Tây Âu ngành
đường sắt cũng đứng dậy biểu tình, đình công liên tục. Các vụ việc này làm các
cấp chính quyền “rối óc”, vụ việc Mohandas K. Gandhi cũng được chính quyền
“cho qua”… Mohandas K. Gandhi quyết định cùng gia đình trở về Ấn Độ sau hai
mươi mốt (21) năm đóng góp sức mình cho lợi ích cộng đồng người Ấn tại Nam
Phi.
Trong khi chuẩn bị hành lý thì Gandhi
nhận được bức điện tín của Gokhale gởi từ Luân Đôn, Gokhale nói rằng ông muốn
gặp Gandhi tại Luân Đôn trước khi trở về Ấn Độ. Ngày 18 tháng 7 năm 1914,
Mohandas K. Gandhi cùng bà Kasturbai lên đường sang Anh Quốc. Hai ngày trước
khi Gandhi đến Luân Đôn, ngày 4 tháng 8 năm 1914 chiến tranh thế giới bùng nổ.
Khi đến Luân Đôn, Gandhi nghe tin Gokhale đã sang Paris vì lý do sức khoẻ,
thông tin liên lạc giữa Luân Đôn – Paris lại bị cắt đứt vì lý do chiến tranh.
Gandhi thất vọng vì ước nguyện đơn giản gặp gỡ Gokhale vẫn chưa thực hiện
được, Ông ngồi ở Luân Đôn đợi Gokhale. Trong lúc nhàn rỗi, Mohandas K. Gandhi
tập họp những sinh viên Ấn đang lưu học tại Luân Đôn thảo luận về phương pháp
đấu tranh giành độc lập Ấn Độ. Một trong những ý kiến khiến Gandhi hết sức lưu
tâm là: “Cuộc chiến này có thể là một vận hội mới cho nền độc lập Ấn Độ”… Vài
hôm sau ông Gokhale cũng về đến Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi đã đến thăm hỏi
và thảo luận với Gokhale về vấn đề độc lập Ấn Độ… Trong một lần quá vui,
Gandhi đột nhiên ngã bất tỉnh, các bác sĩ khám và cho biết Mohandas K. Gandhi
bị viêm màng phổi (pleurisy) khá nặng. Bác sĩ Jivraj Mehta tận tâm chữa trị.
Gokhale rời Luân Đôn trong lúc Gandhi đang được các bác sĩ điều trị. Bệnh ngày
một trầm trọng, họ khuyên Gandhi nên trở về Ấn Độ càng sớm càng tốt. Gandhi
đồng ý và cùng vợ lên tàu về lại Ấn Độ.
Thuyền cập cảng Bombay, dân chúng đón
mừng Mohandas K. Gandhi như một người hùng, vì tiếng thơm của Gandhi đã bay
đến Ấn Độ trước đó. Sau 12 năm tha hương, ông muốn trở lại thăm ngôi nhà cũ,
nhưng hay tin Gokhale đang trong cơn “thập tử nhất sinh”, Mohandas K. Gandhi
cùng bà Kasturbai tức tốc đến Poona (Pune) thăm Gokhale. Gokhale cầm tay
Gandhi không ngăn được dòng nước mắt, Gokhale nhắn nhủ: “Đừng quên chúng ta là
những người đang đấu tranh cho nền lập Ấn Độ, đừng bỏ quên ý chí đó”.
Từ giã Gokhale, Gandhi về Rajkot và
Porbandar thăm lại bà con thân thích, thăm lại ngôi nhà xưa, tìm về chốn kỷ
niệm… Rồi đến Santiniketan thăm lại ngôi trường cũ, nơi đó giáo viên và học
sinh của trường tiếp đón Mohandas K. Gandhi như một niềm vinh hạnh. Cũng tại
Santiniketan, Gandhi lần đầu tiên được Tagore và C.F.Andrews tiếp đón nồng
nhiệt… Và cũng tại Santiniketan vài ngày sau đó, Mohandas K. Gandhi ngậm ngùi
khi hay tin Gokhale đã trút hơi thở cuối cùng…
Sau khi làm lễ hoả táng Gokhale,
Mohandas K. Gandhi đến gặp các vị lãnh đạo cao cấp của tổ chức những người
cùng đinh Ấn Độ (the Servants of India Society) và được mời vào tổ chức, vì tổ
chức này hết sức kính trọng Gokhale, tuy nhiên phần đông thành viên trong hội
này không mấy tỏ ra thân thiện với Mohandas K Gandhi. Ít lâu sau Mohandas K.
Gandhi được mời đến tham quan thủ đô Rangoon - Miến Điện…
Tháng 2 năm 1916, Mohandas K. Gandhi
được mời làm chủ toạ một cuộc mít-tinh tại Đại học Banaras Hindu (Banaras Hindu University, viết tắt là
BHU, tại Varanasi). Và người ta còn thấy Gandhi xuất hiện trong rất nhiều hội
nghị của các đảng phái chính trị, như: hội nghị về quản trị nhà đất của Tilak
và Besant giữa cuối năm 1916, họp mặt và hội thảo thường niên của Đảng Quốc
đại tổ chức tại Lucknow tháng 12 năm 1916,.v.v. Hơn hai năm trời, Gandhi đã đi
nhiều nơi, diễn thuyết khá nhiều địa phương, công chúng đến với Gandhi ngày
một nhiều.... Và tất nhiên Mohandas K. Gandhi phải đối diện với muôn vàn khó
khăn, phức tạp với một xã hội nhiều màu sắc như Ấn Độ, các cuộc bất đồng giữa
các tôn giáo, sự bất bình đẳng trong xã hội như nghèo – giàu, cùng đinh – quý
tộc, trí thức – dân đen…
Cùng năm 1916, tại quận Champaran
thuộc tiểu bang Bihar nông dân gặp phải những khó khăn trong chính sách của
những người Anh về nông nghiệp. Rajkumar Shukla, một nông dân cố tìm diện kiến
Mohandas K. Gandhi, mời Gandhi về Champaran để chứng kiến sự lầm thang của
người dân trong vùng và lên tiếng dùm họ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mohandas K.
Gandhi phải tham dự cuộc mít-tinh của Đảng Quốc đại tổ chức tại Lucknow (thủ
phủ tiểu bang Uttar Pradesh ngày nay), nên hẹn dịp khác. Dù vậy, Rajkumar
Shukla vẫn cố theo nài nỉ, cuối cùng Gandhi hứa sẽ đến Champaran sau khi về
đến Calcutta. Rajkumar Shukla theo chân Gandhi như một cái bóng, nơi nào có
Gandhi thì phía sau có Rajkumar Shukla. Khi Mohandas K. Gandhi vừa đến
Calcutta thì Rajkumar Shukla đã đợi sẵn ở đó, hai người cùng đón tàu về Bihar.
Gandhi thăm quận Champaran vào đầu năm 1917. Khi vừa đến nơi Mohandas K.
Gandhi thấy trên những ngả đường giăng câu khẩu hiệu: “Gandhi không được lưu
lại lâu ngày ở Champaran. Hãy rời khỏi đây như đoàn tàu đã chuyển bánh rời
Champaran”. Tất nhiên, Gandhi không tuân theo những câu khẩu hiệu đó, Gandhi
chỉ đón nhận sự hân hoan chào đón của những người dân cùng khổ trong làng.
Gandhi đã đi từ làng này qua xóm nọ thăm hỏi hơn 8000 nông dân (cultivator),
quan tâm đến sự giáo dục của từng đứa trẻ, thăm hỏi, bắt tay từng cụ già…
những hình ảnh đó tạo ra sự an ủi, thanh thản trong lòng mọi người… Mohandas
K. Gandhi không thể kéo dài thời gian ở Bihar, những nơi khác lần lượt đến và
xin Mohandas K. Gandhi chiếu cố đến thăm thôn xóm của họ. Người làng Ahmadabah
đến sau người làng Champaran, nên từ giã Champaran Mohandas K. Gandhi đến
Ahmadabah… Gandhi vận động nông dân chống lại những món thuế phi lý và sự bóc
lột của chính phủ Anh tại Ấn. Điều này được vô số người dân ủng hộ, kể cả các
quan chức, những người cầm đầu nhiều công hội cũng hết sức tán thành, điển
hình như các quan chức tại Gujarat: Vallabhbhai Patel, Shankarlal Banker,
Mahadev Desai, v.v.
Mùa xuân năm 1917, Ngài Chelmsford,
Phó quốc trưởng Ấn Độ (the Viceroy of India), mở cuộc hội thảo bàn về những
diễn biến về cuộc chiến thế giới, khách mời là tất cả các nhà lãnh đạo cao cấp
tại Ấn Độ, tất nhiên Mohandas K. Gandhi cũng nằm trong số đó. Cùng năm này sức
khoẻ Mohandas K. Gandhi bắt đầu xuống cấp, ông từ chối mọi thuốc men và mọi
lời khuyên về sức khoẻ, dấu hiệu xuống dốc của cơ thể ngày một rõ rệt, nhưng
Mohandas K. Gandhi vẫn quả quyết rằng tinh thần sẽ chiến thắng tất cả. Sức
khoẻ ông chưa bình phục, thì tin mừng được toan tải trên toàn cầu “Chiến tranh
kết thúc”. Mohandas K. Gandhi đi Matheran, từ Matheran ông đến Poona. Tại
Poona một bác sĩ tốt bụng lại phát tâm khám và khuyên Gandhi nên dùng ít sữa
và tiêm ít thuốc. Gandhi đồng ý cho vị bác sĩ đó tiêm ít thuốc, nhưng từ chối
việc dùng sữa. Bà Kasturbai đứng cạnh đó lên tiếng: “Ông không thể dùng được
sữa bò, sữa trâu, nhưng sữa dê (goat’s milk) cũng không dùng nữa sao!”, “Ừ
đúng đấy, sữa dê cũng có hàm lượng sinh tố cao, giúp người bệnh chóng phục
hồi, ông uống thử chút đi!” ông bác sĩ “đệm” vào, Gandhi khẽ gật đầu…
Sức khoẻ tạm thời bình phục, Mohandas
K. Gandhi trở lại Ahmedabad. Tại Ahmedabad, Gandhi nhận được thư mời đến
Madras. Tại Madras, Gandhi đã gặp gỡ C.Rajagopalachari, một nhân vật lãnh đạo
mà Gandhi rất ngưỡng mộ, và cuộc hội thảo các nhân vật lãnh đạo cao cấp diễn
ra ở đó. Báo giới và các sử gia đánh giá cuộc hội thảo này là tiếng chuông đầu
tiêng đánh thức người dân Ân Độ đứng lên giành lại độc lập. Rời Madras,
Mohandas K. Gandhi trở lại Bombay tham gia phong trào “đóng cửa tiệm” vào ngày
6 tháng 4 năm 1919. Trong khi đó tại Delhi, Lahore, Amrissar người ta đã bắt
đầu phong trào “đóng cửa tiệm” (bãi thị) từ ngày 30 tháng 3, cảnh sát Delhi đã thực hiện
lệnh giới nghiêm trong cả thành phố vào ngày này. Một thư mời Mohandas K.
Gandhi trở về Delhi, nhưng ông đáp lại rằng: ông sẽ đến Delhi sau khi thực
hiện xong phong trào “đóng cửa tiệm” ở Bombay. Phong trào này thành công rực
rỡ, ngày đó người ta thấy không một cửa tiệm nào trong thành phố Bombay mở
cửa, không thấy bóng dáng bất kỳ chiếc xe nào chuyển bánh trên đường… Và toàn
Ấn Độ ngày đó, ngày 6 tháng 4 năm 1919, đồng loạt đứng lên chống đối chính
quyền Anh tại Ấn Độ cùng một tư thế, không ồn ào, không giết chóc, không đạn
bom, tất cả im lặng, một sự “im lặng sấm sét” trong các sách Thiền, một sự “im
lặng đến rợn người” trong các bộ sử thi Ấn Độ… tất cả đã được Mohandas K.
Gandhi âm thầm vận động. Những nơi Mohandas K. Gandhi đã đi qua đều lưu lại ở
xứ sở đó những làn gió của tinh thần “bất bạo động” (Ahimsa, Non-violence).
Mohandas K. Gandhi bị bắt tại Palwal
trên đường đi đến Punjab, và bị cưỡng bức trở lại Bombay. Các tin tức Mohandas
K. Gandhi bị bắt đăng tải đầy các tờ báo, dán khắp nơi ở Bombay. Vô số đám
đông tụ tập trên các nẻo đường Bombay để chờ đón Mohandas K. Gandhi, nhưng khi
ông vừa đến ga, một viên cảnh sát chờ sẵn ở đó “mời” ông về thẳng đồn cảnh
sát. Sau cuộc “vấn an sức khoẻ” của các cảnh sát, Gandhi hứa sẽ dùng “giải
pháp mềm dẻo hơn” và đề nghị cảnh sát tổ chức một cuộc mít-tinh cộng đồng để
ông “sửa lỗi”. Cuộc mít-tinh được tổ chức tại Sabarmati Ashrama, dưới sự giám
sát của hàng ngàn cảnh sát thường phục có, cảnh phục có. Mohandas K. Gandhi
bắt đầu buổi diễn thuyết bằng câu: “I have made a Himalayan miscalculation”,
công chúng cười “ồ” một tràng nhạo nhễ, những người bạn thân tỏ vẻ thất vọng
và điên tiết, chỉ vì họ chỉ nghĩ “nghĩa đen” của câu nói trên. Gandhi bắt đầu
bài nói chuyện của mình, không gian và thời gian dường như chết lặng, người ta
không dám thở mạnh để có thể chú tâm lắng nghe những lời nói của Gandhi…
Cùng năm này, tiểu bang Punjab xảy ra
vụ đụng độ kinh hoàng giữa người dân và chính quyền: 379 người bị giết, 200
người bị thương trong cuộc đàn áp đẫm máu tại Jallianwala Bagh (ngày nay người
dân Punjab dùng từ “Jallianwala Bagh” để ám chỉ “sự tàn sát dã man”).
C.F.Andrews bấy giờ đang ở đó, ông viết bức thư gởi đến Gandhi với nội dung:
chỉ có Mohandas K. Gandhi mới làm dịu đi cơn phẫn nộ của dân chúng. Gandhi hồi
âm rằng ông sẽ không trở lại vùng đất ông đã bị trục xuất khi
chưa có một quyết định nào của chính phủ. Tháng 10 năm đó, Phó quốc trưởng Ấn
Độ ký quyết định đồng ý cho Mohandas K. Gandhi tự do đi lại trong vùng đất
Punjab. Gandhi quyết định đến Punjab, tại đây ông được người dân vô cùng kính
trọng, quây quần bên ông tỏ lòng kính ngưỡng. Cảnh “dầu sôi lửa bỏng” ở Punjab
lắng dần. Cũng tại Punjab, Mohandas K. Gandhi đã gặp Jawaharla Nehru. Gandhi
trở thành người đứng đầu Đảng Quốc đại vào năm 1920. Từ đó Ông được dân chúng
tôn vinh là người lãnh đạo mọi phong trào giành độc lập Ấn Độ. Mohandas K.
Gandhi cũng bắt đầu chuyển hướng đảng Quốc đại vốn chủ yếu của giai cấp trí
thức và tư sản thành một tổ chức của quần chúng, thu nhận cả nông dân, giai
cấp trung lưu, v.v. Mohandas K. Gandhi kịch liệt chống lại chủ nghĩa đấu tranh
bạo động, khủng bố, phương châm hành động của ông chủ yếu dựa trên những
phương pháp hoà bình. Phương pháp chính yếu của Gandhi dựa trên hai nguyên
tắc: Satyagraha (nguyên tắc chân lý) và Ahimsa (bất bạo động).
Tình hình chính trị Ấn Độ ngày càng
trở nên tồi tệ, điều này khiến chính phủ Ấn “nát óc”, tình trạng căng thẳng
xảy ra khắp nơi. Ngày 1 tháng 8 năm 1920, trong một bức thư gởi đến Phó quốc
trưởng Chelmsford, Gandhi bày tỏ thái độ không hợp tác chiến dịch do Phó quốc
trưởng đề ra. Gandhi xin trả lại huy chương vàng “Kaiser-i-Hind” nhận được năm
1915. Và trong một cột báo của tờ “Young India” (tuổi trẻ Ấn Độ) Gandhi cho
đăng các quan điểm nhằm bảo vệ quyết định “không cộng tác” (Non-co-operation)
và “bất bạo động” (non-violent) của mình. Ngày 26 tháng 12 năm 1920, tại cuộc
họp thường niên của đảng Quốc đại, Mohandas K. Gandhi được thắng cử với phần
đông người tán thành.
Ngày 17 tháng 11 năm 1921, Hoàng tử xứ
Wales đến thăm Bombay, lúc đó Mohandas K. Gandhi cũng đang ở Bombay. Hôm sau,
Hoàng tử xứ Wales đến thăm một thành phố lân cận, hốt hoảng khi nhìn thấy cảnh
“đường không người, phố không xe”. Tác giả của “màn kịch” “đường không người,
phố không xe” kia không ai khác ngoài Motilal Nehru và Jawaharlal Nehru, tất
nhiên là họ cùng một số người liên can đến vụ việc được đưa vào “nhà đá” để
“đào tạo”. Chính phủ Anh tại Ấn thời bấy giờ nghi ngờ Mohandas K. Gandhi chính là “đạo
diễn” vụ nầy, và quyết định “tặng” Gandhi bản án sáu năm tù giam tại nhà tù
Yeravda ở Poona.
Năm 1924, bệnh tình Gandhi tái phát,
kéo theo chứng bệnh mới viêm ruột thừa cấp tính. Một cuộc giải phẫu dưới sự
giám sát của chính phủ hoàn toàn thành công, nhưng sự bình phục diễn ra rất
chậm. Chính phủ quyết định thả tự do cho Gandhi. Ông đến Juhu một địa danh gần
Bombay để dưỡng bệnh. Gandhi quyết định rời bỏ chính trường để tập trung tâm
hồn mình vào những tiến triển tâm linh. Người ta nhận thấy rằng nhiều năm kể từ
ngày ra tù, Mohandas K. Gandhi rất ít khi bàn đến những vấn đề chính trị. Người ta
chỉ thấy ông đến các tu viện, đền thờ bàn luận giáo lý với các nhà sư, người
ta tìm thấy trên đầu giường của ông nhiều bản kinh Phật và cả các bộ thánh điển Hindu
nữa… Năm 1928, Phó quốc trưởng ngỏ ý mời Mohandas K. Gandhi đến thăm hỏi,
Gandhi nhận lời và một cuộc gặp gỡ không nồng ấm được diễn ra.
Ngày 31 tháng 12 năm 1929, Jawaharlal
Nehru được bầu làm chủ tịch Đảng Quốc đại, người ta hy vọng đất nước Ấn Độ sẽ
hoàn toàn độc lập sau cuộc bầu cử này. Nhưng khi Đảng Quốc đại chưa làm được
điều đó, thì giá muối và thuế muối gia tăng, thậm chí chính phủ còn đánh thuế
vào những người dân nghèo thu nhặt muối tự nhiên trên các vùng biển. Vào ngày 2 tháng 3
năm 1930, Mohandas K. Gandhi viết một bức thư rất dài gởi ông Tân Phó quốc
trưởng Irwin than phiền về những khó khăn trong những chính sách của người Anh
tại Ấn và đề xuất một cuộc gặp mặt để thảo luận, nhưng ông Tân Phó quốc trưởng
trả lời thông qua một vị thư ký với nội dung “trách ngầm” Gandhi là một người
“phá bỏ luật lệ”. Toàn dân Ấn Độ quyết định ủng hộ quan điểm của Gandhi, bắt
đầu từ 6:30 sáng ngày 12 tháng 3 năm 1930, hàng vạn người chứng kiến và hô hào
ủng hộ “chiến dịch” Mohandas K. Gandhi cùng 78 người dân Ấn từ những giai cấp
khác nhau “thầm lặng chống đối” trên quãng đường dài 241 dặm từ nhà Gandhi đến
bờ biển Dandi, khẩu hiệu cho cuộc chống đối này là “Vứt đi Luật muối” (Salt
law would be broken). Sau 24 ngày, cuối cùng “đôi mắt” của chính quyền thuộc
địa Anh tại Ấn Độ
và ống kính báo chí thế giới bắt đầu dõi theo Gandhi. Chính phủ Ấn Độ hoàn
toàn “bó tay” trước chiến dịch này, vì họ nhận thấy rằng mỗi ngày con số tham
gia vào chiến dịch “vứt đi Luật muối” tăng lên vùn vụt, từ số trăm lến đến số
ngàn, người già, phụ nữ, trẻ em lần lượt xuất hiện gia tăng vào chiến dịch…
Chiến dịch kết thúc vào ngày 5 tháng 4 năm 1930 khi đoàn đến bờ biển Dandi.
Vài ngày sau đó Mohandas K. Gandhi lại
bị cảnh sát bắt và đưa đến nhà tù Yeravda. Trong tù Gandhi hoàn toàn im lặng
và tự tại. Trong khi đó, khắp mọi miền Ấn Độ người dân lần lượt đứng lên học
theo phong trào “vứt đi Luật muối” của Gandhi, chính quyền hoàn toàn ngỡ
ngàng, không thể nào “dập tắt” phong trào “vứt đi Luật muối”. Rồi chuyện cũng
“lọt vào tai” Thủ tướng Anh, Ông ra lệnh phóng thích Gandhi và bàn chuyện trả
hoà bình cho Ấn Độ. Gandhi được phóng thích năm 1931, sau khi ra khỏi nhà tù
ông yêu cầu Phó quốc trưởng Irwin cho ông một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn
được đáp ứng ngay sau đó, tất nhiên khi đối diện cả hai đều nhận ra rằng họ đến từ
hai thế giới khác nhau. Cùng lúc đó, tại Luân Đôn nội các Anh đang trong một
hội nghị bàn tròn bàn xoay quanh vấn đề tương lai của Ấn Độ. Tháng 8 năm 1931,
Gandhi lên tàu sang Luân Đôn sau một buổi tiệc nhỏ.
Mohandas K. Gandhi trải qua 84 ngày ở
Anh Quốc, hầu hết thời gian này ông dành cho các cuộc họp mặt và hội thảo.
Churchill từ chối gặp gỡ Gandhi, tuy nhiên người đàn ông Ấn Độ này đã làm
“quyến rũ” mọi người bởi phong cách đặc biệt của mình. Ngay cả đức Vua và
Hoàng hậu cũng phải mời Mohandas K. Gandhi ngồi chung một buổi tiệc trà. Một
phóng viên phỏng vấn Gandhi: “Ông có nghĩ rằng trang phục ông đang mặc đủ tiêu
chuẩn để tham dự một tiệc trà như thế này chăng?”, “Tôi nghĩ chiếc áo mà đức
vua đang mặc đủ cho cả hai người” Gandhi mỉm cười trả lời, tất nhiên là phóng
viên kia chết điếng người trong câu trả lời “nửa vời” mà thâm thuý đó.
Tại hội nghị bàn tròn người ta hoàn
toàn không hề đả động gì đến vấn đề độc lập Ấn Độ, người Anh đã “đánh lạc
hướng” qua đề tài “những khác biệt giữa Ấn giáo và Hồi giáo”, để rồi cuối cùng
kết luận một cách vu vơ rằng: những cuộc nổi dậy ở Ấn Độ hoàn toàn chỉ vì lý
do tôn giáo. Gandhi trở về Ấn Độ không mang theo bất kỳ tin tức mới mẻ nào.
Niềm hy vọng người Ấn như vụt tắt.
Đầu năm 1932, Mohandas K. Gandhi muốn
diện kiến vị Tân Phó quốc trưởng, Willingdon; Tuy nhiên Willingdon trả lời
rằng thời gian đàm phán đã chấm dứt. Gandhi thông báo với các cơ quan chức
năng là ông sẽ tiếp tục tổ chức một chiến dịch chống đối. Tân Phó quốc trưởng
Willingdon cho đó là một sự hăm doạ, bèn ra lệnh nhốt Gandhi vào nhà tù
Yeravda. Tháng 3 năm 1932, Gandhi tuyên bố ông sẽ tuyệt thực cho đến chết. Tin
này được lan rộng một cách nhanh chóng, các bản tin chép tay được dán khắp
nơi. Các nhà lãnh đạo hoàn toàn sửng sốt trước quyết định này của Gandhi,
nhiều người từ các giai cấp khác nhau kéo đến nhà tù Yeravda xin thế mạng cho
Gandhi, hoặc tuyệt thực bên ngoài, hoặc đòi phá ngục vào trong. Tagore gởi đến
Gandhi bức điện tín với nội dung khuyên nhủ và chia sẻ, Tiến sĩ B.R.Ambebkar
hứa hẹn sẽ tìm mọi cách cứu thoát Gandhi. Gandhi bắt đầu tuyệt thực vào ngày
20 tháng 9 năm 1932, đến ngày thứ ba thì Gandhi ngã quỵ, lính gác xốc ông vào
nhà tắm tạt nước, hồi lâu Gandhi tỉnh dậy với giọng nói thều thào và ngày một
yếu dần, huyết áp tăng cao… Người cai tù hoảng sợ cho phép bà Kasturbai và
những người thân vào bên trong. Tagore đến thăm Gandhi vào ngày tuyệt thực thứ
năm. Sau đó, tin tức về cái chết gần kề của Gandhi cũng đến tai chính phủ, và
ông được trả tự do vào một ngày đầu năm 1933.
Bảy năm kể từ ngày được phóng thích,
Gandhi đã tiếp tục nỗ lực, dùng hết sức mình đấu tranh và đóng góp cho các mối
quan hệ xã hội và cho công cuộc giành độc lập Ấn Độ, Ông cũng khuyến khích
người dân Ấn Độ không quên việc phát triển tâm linh và tinh thần đoàn kết tôn
giáo mà Ấn Độ vốn đã có từ ngàn đời. Tất nhiên, nhiều nhà lãnh đạo Ấn Độ thời
bấy giờ không chấp nhận quan điểm, chính sách (bất bạo động) của Gandhi, kể cả
Jawaharlal Nehru. Tháng 10 năm 1934, Gandhi cắt đứt quan hệ thành viên chính
thức với đảng Quốc đại, vì ông không tán đồng các khuynh hướng bạo động của
những người đang đứng đầu trong đảng này. Gandhi về Sevagram ở Maharashtra
tĩnh dưỡng trong một căn phòng nhỏ. Tuy vậy, Gandhi vẫn đóng vai trò cố vấn
cho đảng Quốc đại trong một thời gian khá dài.
Năm 1939, Đệ nhị thế chiến bùng nổ,
chính quyền Anh tại Ấn quyết định gia nhập quân đội Ấn Độ vào phe đồng minh
(allies’ side). Đảng Quốc đại hứa sẽ hết sức ủng hộ quân Anh khi Ấn Độ hoàn
toàn tự do, độc lập, nhưng ông Churchill và chính phủ Anh phớt lờ điều đó, họ
từ chối hợp tác với Đảng Quốc đại. Từ đó, người ta ghi nhận rằng các nhà lãnh
đạo tối cao của Đảng Quốc đại liên tục xuất hiện trong căn phòng nhỏ ở
Sevagram của Gandhi để bàn thảo về những chương trình hành động…
Tháng 9 năm 1940, cuộc mít-tinh toàn
quốc của đảng Quốc đại diễn ra tại Bombay, tất cả tán thành cho một cuộc chống
lại chính quyền thuộc địa, và họ cũng quyết định mở một cuộc mít-tinh nhằm vào
chiến dịch chống lại chủ nghĩa đế quốc mà người Anh đang thực hiện, tất nhiên
cuộc mít-tinh này bị cấm. Nehru bị bắt và vài tháng sau đó con số thành viên
đảng Quốc đại bị bỏ tù lên đến hơn 30000 người. Không hiểu vì sao Gandhi vẫn tại ngoại?!
Tháng 12 năm 1941, chính phủ phóng
thích tất cả các tù nhân hoạt động theo khuynh hướng Gandhi. Năm 1942, quân
đội Nhật vượt Thái bình dương, xuyên qua Malaya và Miến Điện, và quân đội Nhật
có thể xâm lược Ấn Độ, người Anh bắt đầu nghĩ đến việc dàn xếp cho Ấn Độ.
Trước sự đe doạ xâm lăng của Nhật Bản,
Gandhi đề xuất việc thành lập một chính phủ lâm thời nhằm chống lại quân xâm
lược, nhưng đề kiến đó bị phớt lờ. Tháng 3 năm 1942, Churchill tuyên bố nội
các đồng ý về một chương trình dành cho Ấn Độ, và ông Stafford Cripps đã thoả
thuận việc đến Ấn Độ tìm kiếm những nhà lãnh đạo Ấn Độ có khả năng tiếp nhận
chương trình đó. Ngày 22 tháng 3 năm 1942, Stafford Cripps đến Delhi gặp mặt
Gandhi, Nehru, Azad, Jinnah và các nhân vật lãnh đạo tối cao nhiều đảng phái
khác. Stafford Cripps hứa hẹn sẽ trao trả tự do hoàn toàn cho Ấn Độ sau cuộc
chiến, tuy nhiên các thành viên đảng Quốc đại không đồng ý, vì họ không tin
vào những lời hứa hẹn đó, người Anh đã cố tình nuốt lời và lừa bịp nhân dân Ấn
Độ nhiều lần trước đó…
Tháng 8
năm 1942, cuộc mít-tinh toàn quốc của đảng Quốc đại lại tổ chức tại Bombay,
ông Maulana Abul Kalam Azad làm chủ toạ, thành lập một chính phủ lâm thời.
Mohandas K. Gandhi dõng dạc tuyên bố: “Đây là thời điểm người Anh phải ra đi”
(the time has come for the English to go). Đêm đó Gandhi và vô số thành viên
đảng Quốc đại bị bắt, người ta nhốt ông tại điện Aga Khan ở Poona (Pune).
Mahadev Desai, Kasturbai, Naidu, Mirabehn và rất nhiều người của đảng Quốc đại
cũng bị nhốt ở đó. Trong khi
đó, bên ngoài dân chúng đã đứng lên nổi dậy khắp nơi, một cuộc hỗn chiến diễn
ra trên đất Ấn, nhân dân Ấn Độ đã phá đổ tất cả các cơ sở, các toà nhà của
chính phủ, người ta gọi cuộc nổi dậy này là biểu tượng của sự “đạp đổ chủ
nghĩa bành trướng đế quốc Anh tại Ấn Độ”… Đình công, biểu tình, và hỗn loạn
nổi dậy khắp mọi nơi trên toàn đất Ấn. Phó quốc trưởng Linlithgow quy cho
Gandhi là người “xúi giục dân chúng tạo phản”. Trong những bức thư dài nhiều
kỳ Phó quốc trưởng Linlithgow gởi đến Gandhi, Linlithgow đã cố gắng thuyết
phục Gandhi từ bỏ cuộc “xúi giục dân chúng tạo phản” cùng với những lời hứa
hẹn. Tháng 2 năm 1943, Gandhi
lại tuyệt thực nhằm chống lại các loại thuế, các chi phí bất công mà người dân
Ấn Độ phải gánh chịu, lần tuyệt thực này như một tiếng chuông hướng vào Tối cao
Pháp viện Ấn Độ. Gandhi ngã quỵ sau 21 ngày tuyệt thực, một thử thách tưởng
không thể vượt qua, nhưng ông vẫn tiếp tục sống. Bà Kasturbai chăm sóc ông,
nhưng khi Gandhi bình phục chính là lúc sức khoẻ bà Kasturbai tuột dốc.
Mohandas K. Gandhi cố gắng mọi cách cứu nguy và chữa trị, nhưng tất cả đều vô
hiệu. Ngày kia, bà Kasturbai lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay
Gandhi. Gandhi lặng thinh, mọi người xung quanh òa khóc. Vài tuần sau ngày bà
Kasturbai qua đời, Gandhi cũng bị rơi vào tình thế hiểm nguy của bệnh sốt rét.
Dân chúng lại lên án chính quyền, biểu tình đòi thả tự do cho Mohandas K.
Gandhi diễn ra khắp nơi, chính quyền cũng tin rằng Gandhi đang đến gần cửa tử
và ra lệnh phóng thích ông. Như một phép lạ, Gandhi dần bình phục và trở lại
bình thường. Người dân Ấn Độ tin rằng cơ thể Gandhi ví như linh hồn xứ Ấn đang
hồi sinh. Và họ hy vọng...
Tháng 5 năm 1945, hai tháng sau ngày
Đức đầu hàng. Đảng Lao động dưới sự điều khiển của Nội các Anh, Attlee giữ
chức Thủ tướng. Vài tháng sau ngày Nhật Bản thất bại thảm hại, người Anh đã
chính thức tuyên bố “buông tay” và hứa trả lại Ấn Độ cho những người chủ thực
sự của nó. Cuộc đấu tranh giành độc lập Ấn Độ đang tiến đến đỉnh thành công.
Chính quyền Anh tại Ấn tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội cho Ấn Độ. Đảng Quốc trại
“thắng lớn” trong cuộc bầu cử này. Sau cuộc bầu cử một số thành viên thuộc Hồi
giáo đặt vấn đề chia cắt Pakistan, Mohandas K. Gandhi trả lời trong tiếng
khóc: “Bạn có thể cắt tôi làm hai, nhưng xin đừng làm điều đó với Ấn Độ” (Cut me
in two, but do not cut India in two).
Tháng 2 năm 1946, chính phủ Anh cử
phái đoàn Đặc sứ nội các đến Ấn Độ, gồm: Pethick-Lawrence, Stafford Cripps,
A.V.Alexander. Sau chuyến viếng thăm và điều tra này, phái đoàn Đặc sứ nội các
Anh tuyên bố sẽ rút các cơ quan quyền lực của Anh khỏi Ấn Độ.
Ngày 24 tháng 8 năm 1946, Jawaharlal
Nehru chính thức nhậm chức Phó Tổng thống chính phủ Ấn Độ lâm thời. Sau ngày
chính phủ lâm thời Ấn Độ được thành lập, Gandhi ước ao được về tĩnh dưỡng tại
Sevagram, tuy nhiên những người đứng đầu đảng Quốc đại xin Ông ở lại Delhi để
giúp họ cố vấn mọi vấn đề. Gandhi quyết định ở lại Delhi. Nhân ngày 15 tháng
10 năm 1946, tập đoàn Hồi giáo quyết định gia nhập vào chính phủ lâm thời,
Gandhi cho rằng đây là thời gian tốt nhất để ông có thể về thăm Sevagram. Khi
vừa rời Delhi, Gandhi nghe tin các nhóm Hồi giáo đang nổi loạn ở Bengal, nhiều
vụ án thảm khốc xảy ra ở đó. Gandhi quyết định dời bỏ ý định về Sevagram, ông
đến thẳng quận Noakhali thuộc đông Bengal, với hy vọng sẽ mang lại an bình cho
nơi đó. Tại Bihar hàng ngàn người bị giết chết, mấy ngàn người bị thương,
Gandhi chết lặng trước thảm cảnh đó, ông khuyên mọi người hãy bình tâm và
khuyên rằng “người Ấn đừng nên tiếp tục sát hại người Ấn”. Gandhi bắt đầu đi
từ làng này sang làng khác, từ nhà này đến nhà nọ, nơi nào ông đến nơi đó được
mang theo thông điệp của bình an. Nơi nào những làn sóng phản đối nổi dậy, nơi
đó Mohandas K. Gandhi đến và mọi bạo động đều tan biến…
Ngày 3 tháng 6 năm 1947, Thủ tướng Anh
– Attlee – tuyên bố phân chia Ấn Độ, Đảng quốc đại và tập đoàn Hồi giáo đồng ý
ký vào văn bản.
Phó quốc trưởng cuối cùng của Anh tại
Ấn Độ – Mountbatten – băn khoăn và không muốn kéo dài thêm tình trạng cai trị
người Anh trên đất Ấn. Ông quyết định thu ngắn để nhân dân Ấn Độ sớm đón ngày
vui mừng. Cuộc họp bàn giữa hai chính phủ quyết định chọn ngày 15 tháng 8 năm
1947 là ngày trao trả độc lập cho Ấn Độ. Nhân dân Ấn Độ như “mở cờ trong bụng”
khi nghe tin này loan tải. Ông Mountbatten – Phó quốc trưởng Ấn Độ – tôn vinh
Mohandas K. Gandhi là “Kiến trúc sư xây dựng ngôi nhà tự do Ấn Độ thông qua
những viên gạch bất bạo động” (the architech of India’s freedom through
non-violence).
Ngày 13 tháng 1 năm 1948, Mohandas K.
Gandhi bắt đầu tuyệt thực nhằm chống đối lại việc làm của những kẻ Hồi giáo
cuồng tín tạo nên một “hình ảnh Gandhi phản bội” trong mắt của vô số tín đồ
Hindu quá khích. Người dân Ấn vô cùng xót xa trước hình ảnh một Gandhi ở tuổi
78 tuyệt thực và lên tiếng, và phản đối. Vụ việc được giải quyết sáng tỏ, Mohandas K.
Gandhi thôi tuyệt thực và được đưa về an dưỡng tại Birla House. Ngày 20 tháng
1 cùng năm, trong một buổi lễ cầu nguyện, một vụ nổ mìn nhằm ám sát Gandhi,
may thay mục tiêu bị lệch, quả mìn nổ gần chỗ Gandhi cầu nguyện, người bên
cạnh la lớn: “Babuji, mìn đang nổ bên cạnh ngài đó”, Gandhi quay lại hỏi: “Có
người dân nghèo nào bị thương không? Hãy lo cho họ” và tiếp tục cầu nguyện như
không có chuyện gì xảy ra.
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, Mohandas K.
Gandhi bị một tín đồ Hindu quá khích ám hại bằng súng ngắn khi Gandhi đang dạo
vườn cùng hai cháu gái tên Manu và Abha. Tên sát nhân lúng túng tìm cách thoát
thân, Gandhi chỉ tay hướng theo lối rào sau, ra lệnh mọi người đừng đuổi theo
và thầm khấn “Rama, Rama”. Linh hồn vĩ đại của người Ấn ra đi trong sự thanh
thản lúc 5 giờ 46 phút chiều cùng ngày. Lễ hoả táng thi hài Mohandas K. Gandhi
được tiến hành ngày sau đó trên một khu đất lớn, ngày nay người Ấn gọi khu đất
này là Shanti Van có nghĩa là “cõi bình an”, “cõi vĩnh hằng”. Sau khi hoả
thiêu xong, người Ấn đã đem số tro của thi hài Mohandas K. Gandhi rải trên
toàn cõi Ấn Độ, rải xuống sông Ấn, sông Hằng, sông Yamuna và những con sông
lớn trên khắp Ấn Độ. Những lớp tro được rải lên giải đất Ấn Độ hoá thành linh
hồn hoà nhập vào “đại thể” che chở người Ấn, và người Ấn tưởng tượng rằng
“Thánh Gandhi đang ôm lấy Ấn Độ trong đôi tay khổ hạnh nhưng ấm áp tình
người”.
Ngày nay
nhân dân Ấn Độ gọi Mohandas K.
Gandhi bằng những tên gọi thể hiện tấm lòng tôn kính, trìu mến như: Babuji
(Cha kính yêu), Mahatma Gandhi (Linh hồn vĩ đại, siêu thánh / Great soul),
hoặc Vị cha già dân tộc (the Father of the Nation).
LÊ BÍCH SƠN
Delhi, ngày 2 tháng 10
năm 2003 (14:24)

Hình
tác giả chụp tại Rajghat - nơi hỏa thiêu nhục thân Thánh Gandhi tại New
Delhi
----------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
THE STORY OF GANDHI
by Rajkumari Shanker, New Delhi 2002.
MAHATMA – LIFE OF MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI
(VCD, English version, 2 Vols), Gandhi Films Foundation, 2003
THE TIMES OF INDIA,
New Delhi Oct 2nd 2003
DELHI TIMES,
New Delhi Oct 2nd 2003
|