Hòa
Thượng THÍCH PHÚC HỘ
(1904 - 1985)
Hòa
thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp
Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ,
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là
cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
Năm Mậu Tý (1912), Ngài được song thân cho lên chùa Từ Giác trong
địa phương, học chữ Nho với Đại Sư Thiện Hạnh. Lúc này Ngài mới lên 9 tuổi. Sau sáu năm miệt mài
đèn sách với sự dạy dỗ ân cần của vị thầy đầu tiên
kiêm thông y lý, Ngài dần dần quen thuộc, quyến luyến với cảnh chùa am, cộng
với túc duyên nhiều đời thôi thúc, Ngài quyết chí xuất gia học đạo.
Năm
Bính Tý (1917), Ngài vừa 14 tuổi được song thân ưng thuận và đưa tới chùa Sắc
Tứ Phước Sơn (Đồng Tròn) thuộc xã Xuân Sơn cùng huyện, xuất gia với Hòa thượng
trụ trì hiệu Thiền Phương, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41.
Ngài được Hòa thượng ban cho pháp danh là Thị Chí, tự Hành Thiện. Tại đây, suốt năm năm, vừa tu học vừa chấp lao phục dịch, hầu cận
bên thầy, Ngài đã làm tròn phận sự của một người sơ tâm hành đạo.
Năm
Nhâm Tuất (1922), chùa Linh Sơn (Hòn Chồng) thuộc thôn Ngân Sơn, xã An Thạch,
huyện Tuy An, trong tỉnh mở Đại Giới Đàn, Ngài được Bổn sư cho đến đó thọ Cụ
Túc giới. Đại giới đàn này do Hòa thượng Hoằng Hóa làm Đàn đầu. Bấy
giờ Ngài mới 19 tuổi, là Thủ Sa Di, lại thiết tha cầu giới, và có oai nghi tế
hạnh, nên được Hòa thượng Đàn đầu cảm mến, cho đặc cách tấn đàn thọ giới.
Nhân đó Ngài cũng được Bổn sư ban cho pháp hiệu Thích Phúc Hộ.
Sau khi thọ lãnh giới pháp xong, Ngài trở về chùa cũ hầu hạ Bổn
sư, tinh tấn tu học, ròng rã hơn mười năm. Năm
Nhân Thân (1932), Ngài được Bổn sư cho ra Huế tham học với Hòa thượng Giác
Viên ở chùa Hồng Khê. Một năm sau (1933), được tin Bổn sư lâm trọng
bệnh, Ngài vội vã quay về lo hầu hạ chăm sóc. Tháng 6 năm đó, Ngài được
hội đồng chư sơn bản tỉnh Phú Yên cử làm trụ trì chùa Sắc Tứ Từ Quang, thường
gọi chùa Đá Thắng, thuộc thôn Cầu Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, trên đèo Vườn
Xoài.
Ngôi
chùa này là một Tổ đình danh thắng, do tổ Pháp Chuyên Thiền Sư, thuộc dòng
Lâm Tế đời thứ 36 khai sáng vào năm Đinh Tỵ (1797), đời vua Nguyễn Quang Toản
niên hiệu Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn. Tuy Ngài nhận làm
trụ trì, song Hòa thượng trưởng lão Pháp Ngữ đương vị trụ trì hãy còn khỏe mạnh,
nên Ngài chỉ phụ tá. Do đó Ngài có nhiều thời gian đi đây đi đó
để hoằng dương chánh pháp. Mãi tới năm Ất Dậu (1945),
Hòa thượng Pháp Ngữ viên tịch, Ngài mới chính thức làm trụ trì chùa Từ Quang.
Mùa
hạ năm Giáp Tuất (1934), lúc Ngài 30 tuổi, chư sơn tỉnh Khánh Hòa thỉnh Ngài
vào giữ chức Giáo thọ giới đàn tại chùa Thiên Bảo, huyện Ninh Hòa. Với
tinh thần cầu học lúc nào cũng tha thiết, mùa Đông năm ấy Ngài lại xin Bổn sư
cho ra Bình Định tham học với Hòa thượng Phước Huệ tại chùa Sắc Tứ Thập Tháp
Di Đà. Đến năm Đinh Sửu (1937), Ngài nhận lời mời của Hòa thượng Huệ Đạo
ở Phan Rang, vào giảng dạy Phật pháp cho Tăng sinh tại Phật học đường gia
giáo chùa Tây Thiên thuộc tỉnh Ninh Thuận.
Năm
Mậu Dần (1938), Ngài trở về Phú Yên, hợp tác với Chư sơn, mở Phật học đường tại
chùa Bảo Lâm, thôn Liên Trì, nay thuộc xã Bình Kiến, thị xã Tuy Hòa. Ngài kiêm luôn chức Giáo thọ.
Năm
Tân Tỵ (1941), Ngài nhận lời mời của Tổng Trị Sự Hội Việt Nam Phật Học Huế,
ra làm giáo học lớp Sơ Đẳng Phật Học Đường chùa Báo
Quốc do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm giám đốc. Năm 1942, Ngài trở về
Phú Yên, giúp việc cho Hội Phật Học tỉnh nhà, thường xuyên giảng dạy giáo lý
cho Tăng tín đồ Phật tử. Đặc biệt ở Phú Yên có lệ hàng năm, sau lễ Vu
Lan rằm tháng bảy âm lịch, điệu chúng các cùa thường tập trung về một Tổ đình
để tu học đôi ba tháng rồi trở về chùa mình. Những lớp
ấy được Ngài làm giáo thọ giảng dạy. Qua đó
Ngài phát hiện những nhân tố tích cực trong việc tu học, lẫn trí năng đạo hạnh
của một số Tăng sĩ để giới thiệu ra tham học ở Huế. Các vị này
sau trở thành trụ cột cho phong trào chấn hưng Phật giáo tại các tỉnh miền
Nam Trung Việt, như các Hòa thượng Hành Trụ, Trí Nghiêm, Phước Trí, Vĩnh Lưu,
Trí Thành v.v…
Năm
Ất Dậu (1945), khi ngài trở lại trụ trì chùa Từ Quang, Ban Trị Sự Hội Phật Học
tỉnh Phú Yên cung thỉnh Ngài giữ chức Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học tỉnh.
Năm
Đinh Hợi (1947), nhờ uy tín sẵn có, Ngài đã kêu gọi hàng Phật tử hằng sản hằng
tâm tại địa phương, kẻ công người của, trùng tu lại chùa Từ Quang được khang
trang.
Từ
năm Kỷ Sửu (1949) đến năm Giáp Ngọ (1945), liên tiếp năm năm liền, Ngài vẫn
giữ chức Chánh Hội Phật Học tỉnh Phú Yên, lèo lái con thuyền chánh pháp vượt
qua bao khó khăn của thời cuộc, giữ vững niềm tin cho Tăng tín đồ Phật tử.
Trong
thời gian này, vào năm Nhâm Thìn (1952) chư sơn tỉnh Bình Định mở Đại giới
đàn tại chùa Thiên Bình, cung thỉnh Ngài làm Yết Ma A Xà Lê của giới đàn này.
Từ
năm Kỷ Hợi (1959) đến năm Quý Mẹo (1963), mặc dầu chính quyền độc tài gia
đình trị Ngô Đình Diệm ra sức đàn áp, phong trào Phật giáo ở Phú Yên vẫn
không ngừng được củng cố và phát triển. Hai tổ chức
Giáo Hội Tăng Già và Hội Phật Học Phú Yên qui tụ Tăng Ni và Phật tử về một mối,
đồng cung thỉnh Ngài giữ chức Hội Trưởng cùng một lúc để lèo lái con thuyền
chánh pháp qua cơn sóng gió. Thời gian này, Ngài kêu gọi toàn thể
tín đồ trong tỉnh phát tâm đóng góp xây dựng ngôi trường Bồ Đề - Tuy Hòa, từ
bậc Tiểu học đến Trung học để giáo dục con em Phật tử và đồng bào không đủ điều
kiện vào học trường công. Đồng thời một Côn nhi viện
Phật giáo cũng được xây dựng tại thị xã để nuôi dưỡng trẻ mồ côi, giao cho
chư Ni phụ trách.
Trong
pháp nạn năm 1963, Ngài là cây đại thụ chống đỡ ngôi nhà Phật giáo trước
phong ba bão táp, và che chở cho hàng Tăng Ni, Phật tử toàn tỉnh giữ vững niềm
tin. Nhờ uy tín của Ngài mà các chùa chỉ bị bao vây
phía ngoài, chứ bạo quyền không dám xâm phạm vào trong. Việc thờ cúng và kinh kệ vẫn được duy trì như thường lệ.
Năm
Giáp Thìn (1964), tại Đại hội Đại biểu Phật giáo các tỉnh toàn miền Nam họp
nơi chùa Xá Lợi (Sài Gòn), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành
lập với hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo ở Trung Ương, và các Ban đại diện, các
tỉnh. Một lần nữa, Tăng tín đồ Phật giáo tỉnh Phú Yên lại cung thỉnh
Ngài nắm giữ chức vụ Chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh
Phú Yên liên tiếp trong ba nhiệm kỳ từ năm 1964 đến năm 1970. Trong thời
gian này, Ngài cùng Tăng tín đồ trong tỉnh trùng tu lại ngôi tổ đình Bửu Tịnh,
nơi đặt trụ sở của Tỉnh Giáo Hội, và là một di tích lịch sử do Tổ Liễu Quán
khai sáng, tạo nơi đây trở thành một cảnh già lam thanh tú ở trung tâm thị xã
Tuy Hòa.
Tháng
6 năm Mậu Thìn (1968), Đại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Phật Học Viện
Nha Trang do Hòa thượng Trí Thủ làm đàn chủ. Ngài được
Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết mời thay Hòa thượng làm Đàn đầu truyền
giới pháp cho các giới tử. Đến tháng 9 cùng năm, Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Định lại mời Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng tại
Đại giới đàn tổ chức tại chùa Long Khánh ở Qui Nhơn.
Năm
Tân Hợi (1971), Ngài được cung thỉnh vào Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống
Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất kiêm luôn chức Giám luật viện này. Những
năm kế tiếp, Ngài còn được Hòa thượng Thích Trí Thủ cùng Ban Giám đốc Phật Học
Viện Trung Phần tại Nha Trang cung thỉnh làm y chỉ sư trong các mùa an cư của
chư Tăng.
Tháng
9 năm Quý Sửu (1973) Hòa thượng đàn chủ Thích Trí Thủ lại cung thỉnh Ngài làm
Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Phước Huệ tại Phật học viện Nha Trang.
Ngày
07-11-1981, Đại hội đại biểu toàn quốc Phật Giáo lần đầu tiên sau ngày đất nước
được thống nhất họp tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, đã cung thỉnh Ngài là một
thành viên trong Hội đồng Chứng minh Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tháng
8 năm 1982, Đại hội đại biểu Phật Giáo tỉnh Phú Khánh (lúc đó hai tỉnh Phú
Yên và Khánh Hòa còn hợp nhất) cũng cung thỉnh Ngài làm Chứng Minh Sư cho tỉnh
hội.
Vào
những năm tháng cuối đời, như biết trước việc ra đi theo luật vô thường, Ngài
đã thuận lời thỉnh cầu của Tăng tín đồ về an trú tại
chùa Bửu Tịnh để tiện việc tiếp xúc tông môn. Và đây
cũng là nơi dừng chân cuối cùng trong cuộc đời hoằng hóa độ sinh của Ngài.
Ngài
11 tháng giêng năm Ất Sửu (31-01-1985)
vào lúc 7 giờ sáng, Ngài đã bỏ xác phàm về nơi an lạc, hưởng thọ 82 tuổi đời, 63 tuổi đạo.
Hòa thượng Thích Phúc Hộ là tấm gương tiêu biểu cho giới đức
đạo hạnh để hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia học tập. Lúc
nào Ngài cũng ân cần sách tấn Tăng Ni và Phật tử tu
học. Bất luận sang hèn, giàu nghèo, mỗi khi có dịp tiếp xúc thăm viếng,
Ngài luôn khuyến hóa tinh thần tu niệm cầu giải thoát, giác ngộ. Với
người xuất gia Ngài thường dạy:
“Làm
sao cho đạo pháp trường tồn, ngày một rạng rỡ. Các thầy là Tăng Bảo, là
ruộng phước của tín đồ”.
Với
hàng Phật tử tại gia, Ngài dạy: “Phải tùy theo hoàn cảnh mà giữ gìn
công cứ pháp môn Tịnh Độ để cầu vãng sanh Cực lạc” . . .
Ngài
luôn sống bình dị, lúc nào cũng nghiêm khắc với bản thân, khiêm tốn với mọi
người. Ai đã gặp Ngài một lần cũng đều sinh lòng kính ngưỡng.
Trích từ: “Danh
Tăng Việt Nam”, Tập I, Thích Đồng Bổn chủ Biên –
Thành Hội Phật Giáo TPHCM Xuất Bản 1997.
|