Hòa Thượng
THÍCH HUỆ
PHÁP
(1887 – 1975)

Hòa thượng Thích Huệ
Pháp, thế danh Nguyễn Lộ, sinh ngày 13 tháng 8 năm Đinh Hợi (1887), tại thôn
Bồ Đề, xã Đức Quang, nay là xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Thân sinh là cụ Nguyễn Vĩnh, một bậc lão nho tinh thông cả Dịch lý,
toán số, suốt đời mở lớp gia giáo phổ biến Nho học, cả vùng Mộ Đức – Đức Phổ
có đến hàng trăm môn đệ của Người, người dân Quảng Ngãi đương thời không ai là
không nghe đến tên cụ; Thân mẫu là cụ bà Lê Thị Long, con của một lão nho
trong làng. Ngài là con trai thứ trong gia đình bốn anh chị em, trưởng huynh
mất sớm, chị cả là thân mẫu Hòa thượng Khánh Anh, bậc cao Tăng lương đống của
Phật giáo Việt Nam.
Thiếu thời Ngài học chữ
nho của thân sinh. Ngài thường được cụ bà dắt đi chùa Cảnh Tiên gần nhà để lễ
Phật và nghe Đại lão Hòa thượng Hoằng Thanh giảng đạo; Ngài cũng được cụ
Nguyễn Vĩnh dắt về Tổ đình Thiên Ấn – Thạch Sơn học hỏi giáo lý của quý Đại
lão Hòa thượng Hoằng Tịnh, Hoằng Thạc, Hoằng Đức. Từ môi trường này, Ngài được
gặp và tham gia chống Pháp với nhóm cách mạng do nhà chí sĩ Trần Cao Vân và cụ
Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo.
Năm Kỷ Dậu 1909, lúc 22
tuổi Ngài xin phép song thân cho xuất gia với Đại lão Hòa thượng Hoằng Thanh
tại chùa Cảnh Tiên, được Bổn sư cho thọ giới Sa di và ban pháp danh là Chơn
Phước. Ngài tinh cần chấp tác học tập qui tắc thiền môn, ngõ hầu làm long
tượng Phật pháp cho tương lai.
Năm Tân Hợi 1911, Ngài
được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Tổ đình Thiên Ấn và
là Thủ Sa di tại giới đàn này. Năm ấy Ngài 24 tuổi, được truyền Tổ ấn với pháp
tự là Đạo Thông. Sau khi đắc giới, Ngài tiếp tục tu học tại Tổ đình Thiên Ấn –
Thạch Sơn.
Năm Giáp Dần 1914, Ngài
đi vào Bình Định để tham học với Quốc sư Phước Huệ và Pháp sư Phổ Huệ. Duyên
lành đã đến, Ngài gặp hai Phật tử Trừng Quế, Trừng Qui cúng cho Ngài một thảo
am tại đồi cát ở khu 6, thành phố Qui Nhơn để tu học.
Năm Đinh Tỵ 1917, Ngài
được chư Sơn thỉnh làm Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Trường Giác, Tuy Phước,
Bình Định. Uy tín và đạo hạnh của Ngài lan rộng, nhờ sự phát tâm của tín đồ
nên từ một thảo am, Ngài đã xây dựng thành ngôi Tam bảo Minh Tịnh được trang
nghiêm vào năm Mậu Ngọ 1918.
Năm Giáp Tý 1924, Ngài
được cung thỉnh làm Giáo thọ A Xà Lê tại Giới đàn chùa Linh Phong, Phù Cát,
Bình Định. Đến năm Bính Dần 1926, Giới đàn chùa Phước Quang, Quảng Ngãi cung
thỉnh Ngài làm Yết Ma A Xà Lê.
Năm Đinh Mão 1927, Ngài
được thỉnh làm Chánh Ký trường Hương chùa Long Khánh, Qui Nhơn, kiêm Giáo thọ
Sư cùng quý Ngài : Trí Hải chùa Bích Liên; Như Phước chùa Liên Tôn; Hoằng
Thông chùa Bạch Sa, dưới quyền Chủ giảng của Quốc sư Phước Huệ. Cùng năm này,
Lưỡng Xuyên Phật học đường miền Nam thỉnh Ngài vào làm Chủ giảng, Ngài đã cho
Pháp sư Khánh Anh là một học trò ưu tú nhất vào đó để thay Ngài.
Năm Nhâm Ngọ 1942, Ngài
được chư Sơn thiền đức tỉnh Bình Định cung thỉnh vào ngôi Yết Ma A Xà Lê trong
Đại giới đàn chùa Thiên Đức, huyện Tuy Phước.
Năm Giáp Thân 1944, tức
năm Bảo Đại thứ 19, Ngài được triều đình Huế sắc chỉ khâm ban đạo điệp Tăng
Cang và sắc tứ Biển Ngạch chùa Minh Tịnh.
Năm Ất Dậu 1945, hưởng
ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Ngài tham gia mặt trận kháng chiến và
được bầu làm Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Bình Định.
Năm Đinh Hợi 1947, Ngài
được cung thỉnh làm Chứng minh giới đàn chùa Thiên Bình, An Nhơn, Bình Định.
Năm Đinh Dậu 1957, tại
Đại giới đàn chùa Nghĩa Phương – Nha Trang, Ngài được cung thỉnh làm Hòa
thượng Đường đầu truyền giới. Cùng năm, Hội Phật giáo Tịnh độ Tông thỉnh Ngài
ngôi vị Chứng minh Đại Đạo sư Trung phần.
Năm Kỷ Hợi 1959, Hội
Phật giáo Cổ truyền Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật tử thỉnh Ngài làm Chứng minh
Đạo sư Trung phần.
Năm Nhâm Dần 1962, chư
Sơn thiền đức tỉnh Bình Định tổ chức Đại giới đàn tại Tổ đình Minh Tịnh, cung
thỉnh Ngài làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới.
Ngài là vị Pháp sư,
Tuyên Luật sư chuyên giảng kinh, luật, luận cho các trường Giới, trường Hạ,
trường Hương và được cung thỉnh làm Giáo thọ A Xà Lê, Yết Ma A Xà Lê và Đường
đầu Hòa thượng cho nhiều giới đàn khắp nơi Trung, Nam phần.
Ngài đã khai sơn và chủ
trương tái thiết, trùng tu hàng trăm tự viện. Đệ tử xuất gia hàng trăm vị, có
nhiều vị xuất chúng là bậc long tượng Phật pháp, lãnh đạo Giáo hội. Đệ tử tại
gia của Ngài có đến hàng vạn người.
Một phần ba cuộc đời của
Ngài tuy có nhiều ảnh hưởng chính trị trong công cuộc chống thực dân Pháp
giành độc lập, nhưng nhờ giáo lý Phật đà thấm sâu, Ngài đã hiến trọn vẹn cuộc
đời phục vụ cho đạo pháp.
Công hạnh viên mãn, tâm
ý hoan hỷ, thân không bệnh tật, Ngài viên tịch lúc 11 giờ ngày 11 tháng 11 năm
Ất Mão 1975, thế thọ 89 năm, đạo thọ 65 Hạ lạp. Tháp tàng nhục cốt của Ngài ở
hướng Nam chùa Minh Tịnh, thành phố Qui Nhơn.

Trích từ “TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX”
Tập II
Thích Đồng Bổn
Chủ biên
|