Hòa Thượng Thích Trí Minh
LIÊN HOA
1. Thân thế, dòng dõi
Hòa Thượng Thích Trí
Minh, pháp hiệu là Huệ Ðịnh, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy do Bổn Sư của
ngài đặt. Riêng pháp hiệu Trí Minh là Pháp Sư thượng Trí hạ Tịnh, vốn là hòa
thượng của chùa Vạn Ðức ban cho. Thế danh của Hòa Thượng là Ðặng Lợi, tự Ngọc
Chấn, sinh năm 1921 tại xã Phước Bình, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Ðịnh.
Phụ thân của Hòa Thượng
là cụ Ðặng Hiển, tự Quang Minh, lúc trẻ là xã trưởng, một chức vụ cao cấp
trong làng. Ðến lúc về già, được các hương chức và nhân dân trong vùng suy tôn
lên chức Thủ Sắc. Theo tục lệ miền Trung, người được suy tôn lên chức vị Thủ
Sắc phải là người có đức hạnh, cao niên, và gia tộc phải thuộc thành phần
nghiêm chính và liêm khiết, để đại diện dân chúng phụng thờ các vị Thần, Thánh
trong lành, danh từ địa phương gọi là các “sắc thần”, cho nên chức vụ này gọi
là Thủ Sắc.
Mẫu thân Hòa Thượng nhũ
danh là Nguyễn Thị Hà, tự Trinh Thuận, cũng là một bậc nữ lưu đoan chính. Hòa
Thượng là con thứ bảy trong gia đình (Ngài là con trai út, sau Ngài là người
em gái út).
2. Cuộc đời
Cuộc đời tu hành của Hòa
Thượng có thể tóm lược thành các giai đoạn sau đây:
a. Xuất gia
Năm 18 tuổi, Hòa Thượng
xuất gia tại chùa Sắc Tứ Long Khánh, thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Bổn Sư
của Hòa Thượng là Ðại Lão Hòa Thượng thượng Chánh hạ Nhơn, bạn thân của Tổ
Phước Huệ chùa Thập Tháp, thành Bình Ðịnh, thầy của Hoàng Thái Hậu - mẹ hoàng
đế Bảo Ðại. Khi ở ngôi già-lam này, Hòa Thượng làm thị giả cho Bổn Sư của ngài
suốt ba năm và học giáo lý Phật pháp. Trong thời gian này, ngoài phần học giáo
lý Phật pháp và hai thời khóa tụng hằng ngày, Ngài chỉ học thuộc lòng bốn
quyển Luật Trường Hàng, chờ đợi có lúc tổ chức Giới Ðàn khóa luật để thọ giới
Sa Di.
Năm 1942, tại chùa Hưng
Khánh, thôn Hưng Nghĩa, Phước Nghĩa, phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, có mở Giới
Ðàn, Hòa Thượng đã thọ giới Sa Di tại đây.
b. Thời kỳ tu học Phật pháp
Thời kỳ này bắt đầu từ
năm 1942 đến 1950. Ròng rã suốt 9 năm, Hòa Thượng đã trải qua 5 ngôi Phật Học
Viện, suốt từ giải đất miền Trung “đất cày lên sỏi đá”, vào đến tận miền Nam
“ruộng đồng thẳng cánh cò bay”. Với tinh thần tinh tấn dõng mãnh, Hòa Thượng
đã quyết lòng tiến bước trên con đường học đạo.
Năm 1946, Hòa Thượng về
tu học tại Phật Học Viện Phật Quang, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, cũng tại nơi
này, Hòa Thượng cùng cố viện trưởng viện Hóa Ðạo là Thích Thiện Hoa và một số
chư Tăng khác đến chùa Kim Huê, tỉnh Sa Ðéc, đảnh lễ cung thỉnh Ðại Lão Hòa
Thượng Viện Chủ Kim Huê khai đàn thí giới. Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa và
Ngài thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát tại đây. Những ngôi Phật học viện ngài đã trải
qua trong thời kỳ này là:
- Lưỡng Xuyên Phật Học Viện thuộc
tỉnh Trà Vinh.
- Phật Quang học viện thuộc quận
Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ.
- Liên Hải Phật Học Viện, thuộc xã
Bình Trị Ðông, huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Ðịnh (nay là chùa Vạn Phước).
- Báo Quốc Phật Học Viện, tỉnh Thừa
Thiên.
- Từ Ðàm Phật Học Viện, tỉnh Thừa
Thiên.
c. Hành Phật sự
Năm 1950, cả 3 Phật học
viện Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang (tức chùa Ấn Quang ngày nay) hợp nhất tại
chùa Sùng Ðức. Hòa Thượng về đây để cùng làm công tác Phật sự với chư Tăng,
gồm có cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, giám đốc Phật Học Viện Ấn Quang, Thượng
Tọa Huyền Dung, Thượng Tọa Quảng Minh.
d. Thời gian chuyên tu
Bắt đầu từ năm 1952 cho
đến nay, Hòa Thượng đã hoàn toàn dứt bặt mọi ngoại duyên, cam nhận cuộc đời ẩn
tích mai danh, chuyên tu tịnh nghiệp. Suốt gần 42 năm, tấm áo cà sa đã trải
qua không biết bao nhiêu nỗi thăng trầm gian khổ của con đường tu hành.
Hòa Thượng đã rày đây mai
đó, khi thì vào thâm sơn cùng cốc, lúc lại về chốn làng mạc hoang vắng tiêu
sơ. Cuộc đời tu hành phiêu bạt, nối tiếp suốt giòng thời gian âm thầm lặng lẽ.
Ngài khước từ mọi danh vọng, chức vị mà lẽ ra, với cương vị một cao tăng đạo
pháp, đức hạnh kiêm toàn như Ngài thừa sức nắm giữ.
Hòa Thượng chỉ tha thiết
với hoài bão duy nhất là đem tất cả tâm lực hướng về đấng Từ Phụ A Di Ðà, cầu
mong khi xả báo thân, Ngài sẽ được vãng sanh về nước An Dưỡng. Hòa Thượng muốn
chứng minh cho mọi người thấy sự mầu nhiệm nơi lời hạnh nguyện bất diệt của
đức Từ Phụ A Di Ðà, đồng thời, cũng muốn nêu tấm gương trong sạch, thanh cao
của một vị Bồ Tát. Với lòng từ bi vô lượng, Ngài muốn tất cả đệ tử của Ngài,
cũng như Phật tử gần xa, noi theo tấm gương tu hành, bất chấp mọi gian lao,
không nài bao thử thách của kẻ đã quyết chí đi theo con đường giải thoát của
chư Phật.
Ðức hạnh cao quý của Hòa
Thượng, bất cứ đồ đệ hay Phật tử nào được phước duyên kề cận đều không thể nào
phủ nhận Ngài là vị chân tu, đã sống một cuộc đời hết sức thanh bần, giản dị:
Một tịnh thất đơn sơ, chỉ với đôi mái lá chan hòa mưa nắng, bốn bức vách ghép
bằng những thân cây còn nguyên dạng, thật thô sơ. Manh áo hoại sắc bạc màu in
dấu ấn thời gian qua những mảnh vá trên đôi vai mỗi ngày một còng xuống, theo
tuổi hạc tháng năm chồng chất. Lòng khát khao giải thoát với niềm tin sâu dày
đối với Phật pháp, thể hiện một cách sâu sắc qua lời cầu xin Tam Bảo chứng
minh gia hộ, khi Ngài tự thuật cuộc đời mình:
“Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam
Bảo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Từ Phụ A
Di Ðà Phật.
Cúi xin mười phương Tam Bảo, Bổn Sư
Thích Ca, Từ Phụ A Di Ðà Phật bất xả từ bi, chứng minh gia hộ con: Bồ Tát giới
tỳ kheo Thích Trí Minh, thừa từ lực của Tam Bảo và Bổn Sư Thích Ca, Từ Phụ A
Di Ðà Phật, tự thuật sơ lược cuộc đời con. Những lời tự thuật này chỉ xin tóm
lược một phần trong trăm phần khoảng đời từ thuở còn ở thế tục cho đến nay đã
quá thất tuần”.
Ý nguyện tha thiết được vãng sanh
của Ngài đã thể hiện rõ ràng khi giải thích về Pháp danh của mình:
“Pháp hiệu của tôi chính
là Huệ Ðịnh, tự Giải Không, pháp danh Tâm Hy là do Bổn Sư của tôi ban cho, còn
pháp hiệu Trí Minh là do Pháp Sư thượng Trí hạ Tịnh ban cho. Vì khi tùng học
với Pháp Sư tại Phật học viện Phật Quang (Cần Thơ), tôi nhận thấy Pháp Sư là
một bậc tài đức kiêm toàn, nên tôi cầu Ngài làm Y Chỉ Sư cho tôi, nhưng Ngài
từ khước và chỉ nguyện kết làm huynh đệ, trong lúc sống đồng tu hành, đồng làm
Phật sự, khi xả báo thân này, đồng vãng sanh Cực Lạc thế giới, nên Ngài tặng
tôi pháp hiệu Trí Minh”.
Ngoài tấm lòng tha thiết,
ý nguyện quyết tâm trực chỉ Tây Phương, Hòa Thượng còn là một vị tu hành gìn
giữ giới hạnh thật nghiêm túc, luôn thể hiện một phong thái từ ái, khiêm
nhường. Có thể nói, suốt thời gian ngày cũng như đêm, Ngài không sót một thời
khóa tu hành nào, nếu không muốn nói, Ngài tận dụng hết cả thời gian của mình
để chuyên tu Tịnh nghiệp.
Trong lúc hoàn cảnh Ngài
thật đơn độc, sức khỏe ở vào giai đoạn suy thoái trầm trọng. Tu cho mình, Ngài
không bao giờ quên tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong biển trầm luân sanh
tử, nhất là vào thời điểm Phật pháp đang ở vào giai đoạn mạt pháp, Hòa Thượng
càng quan tâm sâu sắc, lo lắng tận cùng cho cơ nghiệp Phật giáo, dù Hòa Thượng
không trực tiếp tham gia các hoạt động của giáo hội.
Mục tiêu chính yếu của
Ngài là xây dựng những nhân tố hoàn thiện, hoàn lương trong giới đệ tử của
Ngài, cũng như tất cả Phật tử hai chúng xuất gia và tại gia. Hòa Thượng nhận
thấy tình trạng suy thoát của Phật giáo đồ đang ngày càng nguy ngập, chánh
pháp của Như Lai ngày càng không được xiển dương đúng mức, nhất là Giới Luật
của Phật, một nền tảng duy nhất và căn bản cho những người muốn thực hiện sự
giải thoát chân chính, đã không được giới Phật tử ngày nay xem trọng.
Nỗi lo âu trước hiểm họa
diệt vong của nhân loại cùng sự suy tàn của Phật giáo đã khiến Hòa Thượng quên
đi tuổi già mắt mờ, tai yếu, thân thể đau ốm triền miên; Ngài đã dồn hết tâm
lực để phiên dịch bộ sách “Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” do Pháp Sư
Thích Diễn Bồi, một cao tăng của Trung Quốc thuyết giảng. Suốt thời gian phiên
dịch, với bao công trình gian khổ, bao thử thách cam go, Ngài đã chiến thắng
tuổi già, chiến thắng ma bệnh, vượt mọi thử thách, để hoàn thành bộ sách trong
hoàn cảnh hết sức khó khăn nghiệt ngã: chỗ ở không ổn định, không người hầu
cận chăm sóc chu đáo.
Chúng ta hãy nghe lời tâm sự chân
thành, đầy xúc cảm của Thầy khi nói về thời gian chuyên tu của mình, với một
tinh thần hết sức khiêm nhường khả kính:
“Nói đến chuyên tu, nơi
đây lòng tôi hổ thẹn muôn phần. Tại sao thế? Vì ý nghĩa chuyên tu là bặt dứt
muôn duyên, và có người hỗ trợ để có thể nhất tâm tu niệm cho được thành tựu
một pháp môn nào. Chẳng hạn như pháp môn Thiền hay Niệm Phật. Nhưng ngược lại,
tôi luôn bị muôn duyên ràng buộc, làm cho thân tâm không an. Vì trong thời
gian cộng tác với chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, để làm các Phật sự nói trên, báo
thân của tôi mang nhiều tật bệnh, nên đối với các Phật sự tôi hoàn toàn bất
lực. Lòng quá buồn đau, tôi tìm chỗ ẩn tu, cầu sớm được xả bỏ báo thân để về
quê hương Cực Lạc. Ý muốn dù như thế, nhưng sự thực hành là cả một vấn đề trăm
ngàn phần khó khăn. Vì hoàn cảnh tôi cô thân đơn độc, linh đinh rày đây mai
đó, lại không người giúp đỡ.
Thế nên, trong suốt thời
gian từ năm 1952 đến năm 1994 là 42 năm, trong thời gian ấy, dù mang danh Viện
Chủ ngôi già-lam Mai Sơn, xã Bình Trị Ðông, huyện Bình Chánh, nhưng sự thật là
việc chùa tôi hoàn toàn không biết đến, vì mải rày đây mai đó… Thân tôi chẳng
khác nào chiếc lục bình lênh đênh trên sông lớn… nhất là trong lúc dịch bộ
kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới Giảng Ký” này. Về nội chướng thì thân bệnh khổ
triền miên, đôi mắt lại bị cườm, nên không thấy rõ. Còn về ngoại chướng thì
thôi không thể nói… Tuy nhiên, tôi rất cảm động hồng ân Tam Bảo đã minh gia,
nên bộ Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký đã được thành tựu. Và dù chịu
nhiều gian truân khổ sở, nhưng bản thân tôi vẫn cố vững bước trên con đường
giải thoát và tiếp tục cuộc hành trình…”
Với những dòng sơ lược về
tiểu sử của Hòa Thượng, người viết bài này chỉ là một đệ tử tại gia của Thầy.
Nhưng với tấm lòng ngưỡng mộ tấm gương tu hành cao quý, cũng như lòng tận tụy
hy sinh vì đạo pháp của Thầy, chúng tôi ước mong những lời dịch thuật vàng
ngọc của Hòa Thượng qua bộ kinh “Phạm Võng Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký” sẽ được
sự tiếp nhận trong tinh thần tôn kính, tha thiết và ân cần của những Phật tử
hữu duyên với Phật pháp, hữu duyên với Thầy, một lòng chuyên nhất, đem tất cả
tâm tư, chí nguyện hướng về con đường giải thoát chân chính.
Chúng tôi xin thành tâm
cầu nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật tử, những vị nhiệt tâm vì
đạo pháp, có đầy đủ thiện duyên lãnh hội và tuân hành triệt để những lời pháp
vô giá, để không phụ lòng từ bi của chư Phật, của Pháp Sư Diễn Bồi, người trực
tiếp giảng các giới của bộ kinh này, và nhất là đối với Hòa Thượng Thích Trí
Minh, vị thầy tôn kính, đã dầy công phiên dịch từ Hán văn sang Việt văn, bằng
những lời lẽ đầy cố gắng, để phù hợp với trình độ của mọi giới Phật tử.
Lẽ tất nhiên, chúng tôi
nghĩ rằng bản dịch này không thể nào đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp Phật tử
với nhiều trình độ khác nhau: những người bình dân sở học còn hạn chế, cũng
như đối với quý học giả kiến thức uyên thâm, văn từ điêu luyện. Dịch giả đã cố
gắng hết sức mình trong công việc phiên dịch này, một công trình đòi hỏi nhiều
thời gian và công sức, mà với điều kiện sức khỏe yếu kém, dịch giả khó lòng
khắc phục.
Ngoài ra, công việc phiên
dịch nếu muốn hoàn hảo, đòi hỏi dịch giả phải là người có trình độ chuyên môn
thật cao, kiến thức về ngôn ngữ thật rộng. Ðôi lúc cần phải có điều kiện tìm
hiểu sâu về đặc điểm của nền văn hóa các dân tộc, nơi nguyên tác được hình
thành, cũng như nơi sử dụng ngôn ngữ mà dịch giả đang phiên dịch. Như thế mới
có thể chuyển dịch toàn bộ tư tưởng của nguyên tác, đồng thời vẫn tạo cho
người đọc cảm giác gần gũi, mà qua bản dịch, độc giả không còn cảm thấy ranh
giới giữa các ngôn ngữ. Nói như vậy để mong tất cả quý độc giả, cùng chư Phật
tử cảm thông cho tấm lòng Hòa Thượng. Ngài chỉ có một hoài bão duy nhất là
muốn chấn hưng lại cơ đồ Phật giáo đang bị lung lay tận gốc, trước tình trạng
giới luật không được các tín đồ Phật giáo tôn trọng và tuân hành nghiêm túc
như hiện nay.
Ngài muốn cho bánh xe
pháp lưu chuyển đến mọi nơi; dòng pháp nhũ của Phật rót vào tận tâm hồn những
chúng sanh còn mải chìm đắm trong đêm dài tăm tối, dẫy đầy giết chóc, tràn
ngập đau thương. Chung quy cũng là vì ánh đạo vàng của Phật không còn được
rạng ngời trong lòng chúng sanh hiện đại, những con người chỉ biết mải miết
đeo đuổi mộng mưu bá đồ vương, lao mình vào biển lửa chiến tranh, để mong tìm
cầu hạnh phúc trong vật chất xa hoa hoặc bóng hình lợi danh hư ảo.
Bằng tất cả sức lực tồn
tại trong tấm thân già nua mà phút vô thường không bao giờ hẹn trước, Hòa
Thượng đã dồn hết vào công trình dịch thuật này.Thầy đã hy sinh quá nhiều cho
đạo pháp, tận lực vì chúng sinh, nỗ lực kết lại chiếc bè pháp để đưa rước
khách hữu duyên. Trong những tháng năm còn lại của cuộc đời, Ngài vẫn không
nguôi lòng từ mẫn đối với chúng ta, luôn giúp toàn thể chúng sinh cơ hội trở
về quê hương vĩnh cửu. Ðó chính là nước Cực Lạc thanh lương, giải thoát của
đức Từ Phụ A Di Ðà.
Thành tâm cảm thán:
THƯỢNG đức ngàn thu rực ánh vàng,
TỌA Thiền, niệm Phật hướng Tây Bang,
TRÍ lành tận lực phiên kinh báu,
MINH tuệ dốc lòng độ chúng sanh,
THANH tịnh tâm thành dương Phật pháp.
TU hành chí quyết đáo Tây Phương.
TỊNH am vùi lấp mùi chung đỉnh
NGHIỆP đạo hoằng khai rạng Thích Tràng.
Mùa Thu Giáp Tuất, 1994
Ðệ tử cẩn bút
Liên Hoa
|