Hành Hương Thiên Trúc
HUỲNH TRUNG CHÁNH
“Tùy bút đã viết nhằm mục
đích chia xẻ với bạn đọc cảm nghĩ trung thực của tác giả trong chuyến hành
hương đất Phật. Đây không phải là một tài liệu về Phật tích nên các chi tiết
kể lại có thể không chính xác”.
Ước mơ một chuyến viễn du về miền Thiên Trúc đã manh nha trong đầu óc
trẻ thơ ngay từ khi tôi còn là một học sinh tiểu học đam mê truyện Tây Du
huyền hoặc. Tôi cũng mong được như Tề Thiên tu luyện thành thục bảy mươi hay
phép thần thông biến hóa thừa khả năng phò đường Tam Tạng vượt núi băng rừng
tiêu diệt lũ ma hầu đến Lôi Âm tự thỉnh kinh về nước. Lớn lên, không còn tin
tưởng chuyện huyền hoặc, nhưng niềm ước mơ về chuyến Tây Du của tôi chẳng
những không bị thui chột, mà trái lại đã có phần thâm thiết hơn: Tôi là một
người con Phật.
Tuy nhiên vì sinh sống ở
vùng sa mạc nắng cháy, thiếu vắng tin tức sinh hoạt phật sự của người Việt tại
sứ người, nên tôi chẳng hay biết gì về các chuyến hành hương đã tổ chức, giấc
mơ Tây Du của tôi lần lần trở nên vô vọng. Mùa hè qua, do một nhân duyên đặc
biệt tôi đến Houston (Texas), thăm chùa Việt Nam, rồi may mắn ghi danh tham dự
chuyến hành hương mười tám ngày trên đất Phật do thầy Viện chủ hướng dẫn. Phái
đoàn đã đến Tân Đề Ly ngày 03.10.98, nhưng thay vì lên đường chiêm bái Phật
tích ngay, công ty du lịch lại vẽ vời ra chuyến viếng thăm hai ngày tại vùng
lăng tẩm Taj Mahal, cùng các đền đài cung điện Agra Fort và Itmadud Daulah tại
thành phố Agra, cố đô của họ. Người Ấn rất tự hào về di tích lịch sử nầy và
cho rằng đây cũng là một kỳ quan thế giới. Đối với hành khách hành hương như
tôi, thì công trình đó tuy vĩ đại kiêu kỳ nhưng chỉ tiêu biểu cho lòng dạ tàn
ác của các bậc quân vương đã áp bức đầy đọa dân lành xây dựng những kiến trúc
to tát chỉ nhầm thỏa mãn tham vọng ngông cuồng của họ mà thôi. Bao nhiêu thân
xác, bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu tài sản… của dân đã đánh đổi cho
những đền đài cung điện vô nghĩa đó. Vô nghĩa như chúng tôi đã phí phạm hai
ngày quí giá trên đất Phật để tham quan một chuyện không đâu.
Chẳng biết công ty du lịch
tổ chức như thế nào mà 11 vị xuất ngoại bằng Re-entry Permit, trong đó có 3
tăng ni, phải trở lại thủ đô điều chỉnh chiếu khán nhập nội và đành bỏ dở hai
địa điểm hành hương đầu tiên. Thành phần còn lại được đưa đến thành phố Lucknow bằng chuyến đi xe lửa đêm gian nan như một chuyến vượt
biên. Xe bus đưa chúng tôi đi chậm chạp trên con lộ lưu thông cản trở bởi đoàn
người lũ lượt túa ra đường hành lễ ồn ào, với những tiếng la hét, pha lẫn với
tiếng pháo hay tiếng súng đì đùng. Đến nhà ga khi trời vừa sụp tối, hướng dẫn
viên cho biết đây là khu vực kém an toàn, tất cả phải ngồi yên trên xe, màn
cửa che kín lại… nên thần kinh đã bắt đầu căng thẳng. Thế rồi, cả đám cứ lẳng
lặng chờ đợi và chờ đợi hàng hai giờ hướng dẫn viên mới liên lạc được toán phu
khuân vác hành lý, đoạn thông báo phái đoàn chuẩn bị rời xe bus. Trời tối,
chúng tôi phân tán thành nhóm nhỏ, dắt díu nhau bươn bả theo phu khuân vác mà
thấp thỏm âu lo: Vừa sợ thất lạc, vừa sợ mất hành lý, vừa sợ kẻ gian manh rình
rập ở hóc hẻm nào đó. Hú hồn hú vía chúng tôi đến được sân ga không mất nhân
mạng nào. Sân ga đầy người, kẻ bệnh hoạn đói rách nằm la liệt, khiến cho cháu
Hiếu cảm động thương người nghèo khổ mà nước mắt đầm đìa. Đến đây, phái đoàn
bị tách thành hai toán nam và nữ riêng rẻ để sẽ lên hai toa tàu khác nhau.
"Thân ai nấy lo, hồn ai (đúng ra là hành lý và passport của ai) nấy giữ", khi
tàu vừa dừng thì phải leo lên nhanh, kẻo bị bỏ lại là tiêu đời. Chờ đợi cả
giờ, chiếc tàu hỏa mới lầm lì trờ tới. Thế là chúng tôi phải ùa nhau chen chúc
lên tàu, đứng lắc lư chịu trận. Trông ngóng thêm một thời gian dài nữa, người
hướng dẫn mới tìm đủ cho mỗi người một cái giường, loại giường đôi "hẹp té"
trong phòng bốn người có máy lạnh và màn che. Dù vậy tôi chẳng làm sao chợp
mắt được, chỉ e lơ là đến trạm Lucknow
mà chẳng hay thì biết ú ớ kêu réo ai đây? Cuối cùng vào khoảng bốn giờ sáng,
tức là sau 10 tiếng đồng hồ cực nhọc (6 giờ chờ đợi, 4 giờ di chuyển) cho một
đoạn đường dài "vô tận" chừng 150 dậm, chúng tôi cũng đến nơi. Chúng tôi lại
cũng hồ hởi dắt díu nhau tìm đến được chiếc bus của công ty du lịch an toàn.
CHIÊM BÁI KỲ VIÊN TỊNH XÁ
Phái đoàn được đưa đến khách
sạn tạm dừng chân đôi giờ để ăn sáng và chỉnh đốn lại dung nhan tàn tạ, rồi
tức tốc khởi hành đi đến quận Balrampur, một khoảng đường 190 cây số và ước
lượng phải kéo dài hơn bảy giờ lái xe. Từ đó, chúng tôi sẽ đi chiêm bái thánh
tích đầu tiên: Kỳ Viên Tịnh Xá. Xe lăn bánh chông chênh trên con đường bụi bặm
nhỏ hẹp và loan lổ ổ gà, giữa hai hàng cây chằng chịt giây leo, lùm bụi um tùm
trông hoang dại mà lại hấp dẫn lạ lùng. Đôi khi xe len lỏi giữa hai hàng cây
giao cành rợp bóng rất thơ mộng, nhưng lắm lúc, xe lách sát lề, tàn nhẫn tuôn
đám bụi mù mịt vào những căn chòi lá trống trải, chẳng tiếc thương gì đám
người gầy còm đang ngơ ngáo nhướng mắt đau thương chịu đựng. Điểm đặc biệt là
dù túp lều lớn nhỏ như thế nào, mái lá cũng che phủ bởi những giây bầu bí trổ
bông vàng rực rỡ, đối nghịch với tấm phên vách trét đầy những bệt phân bò in
dấu bàn tay u ám, nên trông vừa bi thảm vừa đượm nét dễ thương. Dọc hai bên
đường là hai hàng mương nhỏ nhấp nhô những khóm súng khoe khoang những chiếc
bông trắng xinh tươi… tiếp nối bởi cánh đồng ruộng mông mênh, và lác đác đây
đó từng đàn cò trắng thong dong lui tới. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng thấy
xuất hiện xa xa những khóm nhà ngói xinh xắn lấp ló sau bụi tre, bụi chuối,
cây bưởi, cây xoài… cảnh tượng hao hao như thôn xóm quê nhà, khiến tôi chạnh
lòng nhớ nước mà thoáng nao nao.
Quá trưa, xe bus đưa chúng
tôi đến khách sạn Travotel Maya để dùng cơm và nghĩ ngơi. Khách sạn này có
treo tượng Phật khá đẹp ngay phòng tiếp tân. Thấy tượng, ai cũng hân hoan, bởi
lẽ, kể từ khi đặt chân đến nước Ấn đến nay có bao giờ chúng tôi lại được trông
thấy bất cứ điều gì dính dáng đến đạo Phật đâu. Đến bốn giờ, chúng tôi lại
tiếp tục cuộc hành trình. Xe bus vừa rời khu phố lèo tèo, xuyên qua những cánh
đồng lúa bao la, thì tôi liền thấy xuất hiện mấy đầm sen thật lớn, hoa màu
hồng nhởn nhơ tươi thắm. Tôi thèm được ngắm nhìn, được hái những đóa sen cúng
Phật, nhưng tôi vốn là một đoàn viên lặng lẽ hòa hợp với mọi người, nên dẫu
lòng rất mong muốn, mà ngại ngùng chẳng dám chộn rộn mở lời. Chặng đường 17
cây số thật ngắn, chỉ trong một khắc, Kỳ Viên Tịnh xá đã hiển hiện rõ ràng và
nhiệm mầu trước mắt tôi; nhiệm mầu vì tôi biết chắc đây là sự thật chớ chẳng
là mơ nữa. Tôi xúc động nghẹn ngào, rồi bỗng dưng tôi có cảm giác lạ lùng là
vùng thánh địa nầy rất thân thương và đã gần gũi quen thuộc với tôi tự kiếp
nào. Có kiếp nào đó tôi đã hành hương hay sinh sống chốn nầy? Hay cảm giác
quen thuộc đã bắt nguồn từ những nét tương đồng của vùng ruộng lúa nầy với
miền Nam, quê hương
tôi? Hoặc giả, cũng có thể vì tôi vốn một lòng quy ngưỡng pháp môn Tịnh Độ, mà
Kỳ thọ Cấp cô Độc viên chính là đạo tràng mà Đức Phật đã thuyết kinh A Di Đà,
nên niềm tha thiết kính yêu đó đã sẳn ấp ủ trong tâm khảm tôi tự bao giờ rồi?
Ý thức rõ rệt chốn nầy ngày
xưa Đức Phật đã đặt vết chân, tôi bước từng bước thật chậm, ước mong rằng mình
sẽ noi dấu chân Phật, không phải chỉ riêng trong ngày hôm nay, mà thầm nguyện
sẽ trung kiên bền bỉ "theo dấu chân của người" suốt kiếp nầy và mãi mãi về
sau. Tôi thả tầm mắt nhìn thật xa, quan sát tổng quát diện tích tịnh xá. Kỳ
Viên ngày xưa quả là một đạo tràng khang trang tao nhã có điều kiện dung chứa
hàng ngàn tu sĩ và cư sĩ quy tụ về tu tập. Ngày nay, có lẽ chính phủ Ấn vẫn
giữ nguyên diện tích cũ rồi tái thiết như một công viên, với những thảm cỏ
xanh tươi, hàng bông dọc theo lối đi xinh xắn, cây kiểng tươm tất cắt tỉa… Tuy
nhiên, họ cũng giữ lại nhiều cây cổ thụ cùng vài lùm bụi rậm rạp cho tương
xứng với nền gạch đá rong rêu, nên bên cạnh vẻ đẹp tân thời cũng hiển hiện
được nét cổ kính của ngàn xưa.
Chúng tôi dừng lại tại cây
Bồ Đề A Nan để chân thành hành lễ Phật. Cây Bồ Đề cằn cỗi nầy do Ngài Mục Kiền
Liên chiết nhánh từ cây Bồ Đề mẹ Ở Bồ Đề Đạo Tràng về trồng, theo thỉnh nguyện
của Ngài A Nan, hầu tứ chúng dùng là điểm tựa hướng về Đức Phật. Theo gương
người xưa, tôi chiêm ngưỡng cây Bồ Đề mà tưởng tượng như Đức Phật đang hiện
hữu thuyết kinh A Di Đà. Tôi phủ phục lễ lạy và cảm thấy một niềm vui mênh
mang tràn ngập… Lễ Phật xong, chúng tôi tiếp tục chiêm bái rất nhiều nền móng
tự viện, tăng xá, nền tháp, hồ nước, giếng nước… rải rác khắp nơi. Chúng tôi
muốn quan sát thật lâu, xăm xoi từng địa điểm một, thế nhưng, mới lẫn quẫn hơn
phân nửa khuôn viên thì ánh dương bắt đầu nhạt dần. Rồi chỉ trong khoảnh khắc,
bóng tối tràn ngập, không ngắm nhìn chi được nữa, nên đành lủi thủi ra về.
Đêm ấy, cảm giác tiếc nuối
ám ảnh tôi mãi, nên vừa chợp mắt ngủ tôi liền chập chờn vào mộng. Tôi thấy
mình đi như bay đến đầm sen bao la, tôi định hái một búp sen nhỏ nhưng ngần
ngừ chưa dám tự tiện. Bỗng nhiên, ngay lúc đó tôi thấy có một người Ấn quý
phái, tuổi trung niên xuất hiện, cầm đóa hoa trao tôi, mĩm cười lên tiếng:
"Biết con ưa thích sen, nên ta dành sẵn con đóa nầy". Tôi lí nhí cám ơn nhưng
chưa kịp hỏi hang thì người lại nói: "Con hãy đi theo ta!" Thế là người nắm
tay tôi dẫn đi thoăn thắt vào Tịnh Xá, đến cái nền chùa khá lớn nằm về phía
bắc cây Bồ Đề A Nan chừng năm mươi thước rồi bảo: "Ngày xưa, Đức Phật ở Tịnh
Xá nầy. Con nên lễ Phật tại đây!" Tôi vừa dâng hoa lễ Phật xong, thì người Ấn
trung niên lại vỗ vai tôi, nói: "Lòng dạ con chân thành! Đáng khen lắm!" Tôi
thấy ông ta tốt bụng nên rất có cảm tình, nhưng ông ta trẻ tuổi hơn tôi mà cứ
tự coi là bậc trưởng thượng mãi khiến tôi đâm ra khó chịu, nên vội đính chánh:
"Tôi không nhỏ tuổi như ông tưởng đâu! Tôi đã gần sáu mươi tuổi rồi đó!" Anh
ta cười như bỡn cợt, rồi chẳng "đếm xỉa" gì lời phản đối của tôi, vẫn tiếp tục
giọng kẻ cả: “Thế à! Vậy thì ta xưng hô với con cách nào cho đúng vai vế đây!”
Tôi chán nãn chực bỏ đi, nhưng thốt nhiên, vừa nghe tiếp câu kế, tôi liền thay
đổi ngay thái độ thiển cận của mình.
Hà! Hà! Ta ra đời trong một gia đình theo truyền thống Phật giáo Nhất thiết
hữu bộ cách nay hơn 800 năm tại thành Xá Vệ nầy. Thuở bình sinh ta vốn thiết
tha tìm hiểu Phật Pháp, nhưng dạo đó, đạo Phật tại đây đã bắt đầu suy đồi, nên
ta phải rời quê nhà đến thành Vương xá, tu viện Na Lan Đà xin tu học. Sau ba
tháng khảo nghiệm thử thách, ta được trưởng lão Tu Đề Đà La thu nhận làm xuất
gia đệ tử, và cho nhập viện. Nhờ vậy, ta có cơ duyên học hỏi đủ loại kinh điển
và tư tưởng của mọi tông phái Phật giáo, nhất là ngành Duy Thức, ngành mà ta
vốn quý trọng đặc biệt. Một hôm có tin dữ đưa về tu viện, cho biết một đoàn
quân sát máu Hồi giáo do chủ soái Mohammed Bakhtiyar Khizi lãnh đạo đang tiến
về Vương Xá. Nhằm chủ trương tiêu diệt tôn giáo khác, đoàn quân nầy thẳng tay
đốt phá kinh sách, tự viện và giết sạch không chừa một tu sĩ Phật giáo nào cả.
Dù vậy, tuân phục theo lời khuyên dại của Hội đồng Trưởng lão: "Chuyện gì đến
sẽ đến, nếu phải chết thì cũng vừa đúng lúc, không có gì phải sợ hãi cả", hầu
hết tăng chúng thường trú – trên mười ngàn người – đều giữ thái độ trầm tĩnh
tu học như thường lệ…Thế nhưng, ta cùng một số rất ít người không tán thành
giải pháp đó. Chúng ta viện lẽ rằng tăng sĩ cũng có cần phải sống cho Phật
giáo mai sau được tồn tại. Vì vậy, ta đã lặng lẽ cỡi áo tu sĩ, lẻn đến làng
Kolika ẩn trốn tại một nhà nông dân, và thấp thỏm lo âu chờ đợi. Và diễn tiến
đã xảy ra như sử sách đã ghi rõ: toàn thể tu sĩ bị tàn sát máu chảy thành
sông, tu viện bị đập phá san bằng, kinh luận bị thiêu hủy cháy sáng rực cả một
góc trời. Sau đó, chúng lại cẩn mật bủa lưới lục soát chặt chẽ khắp nơi, không
chừa hóc hẻm thôn xóm hay núi rừng nào… để bắt giữ tất cả số tu sĩ lẻ tẻ còn
sống sót đang lẫn tránh. Ta cũng sa cơ trong đợt nầy. Bọn nhát gan chúng ta
được chiêu dụ là nếu chấp nhận từ bỏ đạo Phật, tận tụy phục vụ đạo mới thì sẽ
toàn mạng, và do đó, chỉ tạm bị tập trung giam giữ để thanh lọc tư tưởng. Sống
sót đến giờ phút nầy ta mới nhận chân rằng thà chịu chết ngay lúc đầu, có lẽ
còn dễ chịu hơn trốn tránh để lãnh lấy nỗi đớn đau tủi nhục nầy. Vì vậy ta
thầm thề sống chết với đạo, nguyện sẽ can cường tu tập dù gập nghịch cảnh khó
khăn thế nào. Tuy nhiên, ở trại tù tập trung nầy, với người cùng cảnh ngộ còn
không dám hở môi huống hồ có thể lễ bái, tụng niệm kinh điển hay hành thiền.
Do đó, cũng như mọi người, ta đành ngậm câm như hến để đè nén nỗi điên cuồng
cứ chực nổ tung. Chẳng biết do duyên phước nào, mà ta bỗng nhớ lời Đức Thế Tôn
dạy trong kinh Đại Tập là trong thời mạt pháp, chỉ cần nương theo pháp môn
Niệm Phật tu tập là thoát nẻo luân hồi. Ta tức thời nhất tâm niệm lục tự Di Đà
để cầu vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Ta biết thời giờ đã cấp bách, nên
dứt khoát buông bỏ hết ngoại cảnh ngoại duyên, một lòng một dạ chí thành niệm
Phật A Di Đà ngày đêm không ngơi nghỉ, mà không hề thấy mệt nhọc. Đến ngày thứ
bảy, bọn chúng mang ta ra tra vấn. Chúng vặn hỏi ta ba lần rằng có chịu bỏ đạo
Phật chăng, mà ta vẫn im lìm miệt mài niệm Phật không trả lời, nên chúng giận
đâm ta một nhát gươm ngã gục. Ta chưa chết liền, nên vẫn thều thào tiếp tục
niệm Phật với lòng thanh thản không chút hận thù. Thế rồi, bỗng nhiên ta thấy
Tam Thánh hiện đến, rước ra về cõi Cực Lạc trung phẩm trung sanh. Nhờ tam
Thánh dắt dìu, chẳng bao lâu ta đắc quả vị bất thối, từ đó, ta có thể tùy theo
bản nguyện độ tận chúng sanh, mà thọ hiện làm dạ thần vườn Kỳ Viên để bảo hộ
vùng đất Phật nầy cho cây cỏ thêm xanh, sen thêm thắm, và khách hành hương
tăng trưởng đạo tâm…
Tôi quỳ xuống lạy người cầu
xin sám hối. Khi đứng dậy thì thấy người đã từ từ rời bước, tôi vội lúp xúp
chạy theo đến đầm sen. Chao ôi! Lạ quá! Cái đầm sen giờ đây mênh mông như biển
cả, còn hoa sen cũng to lớn và đẹp đẽ phi thường. Thấy tôi mê mẩn ngắm nhìn,
người lên tiếng: "Con thích giống sen nầy không? Nếu thích, con hãy phát bồ đề
tâm gieo hạt rồi chân thành tưới tẩm bằng tín hạnh nguyện, thì lo gì chẳng có
lúc nở hoa!" Dứt lời, người biến mất, đầm sen mờ nhạt… Tôi còn đang ngẩn ngơ,
thì bỗng nghe tiếng điện thoại đánh thức reo vang…
CHIÊM BÁI LÂM TỲ NI
Đúng bảy giờ sáng, chúng tôi lên đường tiến về biên giới nước
Nepal, một khoảng đường dài
ước chừng 80 cây số đang ở trong tình trạng hư hổng trầm trọng. Con đường nhựa
biến dạng nhường chỗ cho lỗ hang ngự trị. Có những "ổ đà điểu" to đến nỗi
chiếc bus rống lên từng hồi chật vật lê lết, mà có lần trợt lên trợt xuống vẫn
không nhúc nhích được, thế là hành khách đành xuống xe "cuốc bộ" một khoảng
ngắn. Đây là cơ hội tốt giúp tôi có lý do chánh đáng để la cà quan sát sinh
hoạt của một xóm nhỏ miền quê: Một lớp học không bàn, không ghế, tổ chức ngoài
trời cho trẻ con. Dân quê chốn nầy nghèo xác xơ, nhà cửa tồi tàn không lành
lặn thì làm sao có đủ khả năng gầy dựng nổi ngôi trường tươm tất. Nhìn đám trẻ
thơ ngây áo quần lôi thôi, không nón không giầy, thiếu thốn bút mực sách vở…
ngồi bẹp dưới đất học hành, mà thương quá là thương!
Chúng tôi đến trạm kiểm soát
biên giới vào khoảng quá trưa, nhưng phái đoàn thì đông người, mà nhân viên
phụ trách chiếu khán nhập nội lại xem xét quá ư cẩn thận, thành thử chúng tôi
đành phải chờ đợi ròng rã ba tiếng đồng hồ để hoàn tất thủ tục cần thiết. Do
đó, mãi đến bốn giờ, chúng tôi mới đặt chân đến được vườn Lâm Tỳ Ni. Bước vào
cổng, thoạt thấy một gian nhà lụp xụp tôi ngỡ là nhà kho chứa vật dụng phế
thải, đến chừng tìm hiểu thì mới biết đó là nơi tạm làm đền thờ hoàng hậu
Mayā, đền thờ cũ đang được trùm kín lại chờ tu bổ. Phía trong đền có bức phù
điêu cổ, nét chạm linh động diễn tả cảnh hoàng hậu đang giơ tay vịn cành Vô Ưu
và Đức Phật vừa đản sanh. Tôi ngậm ngùi rời chốn thờ phượng ảm đạm nầy, để đi
vào bên trong khuôn viên. Cảnh vật ở đây cũng xơ xác điều hiu không kém. Ôi!
Lâm Tỳ Ni ngày xưa nổi tiếng là ngôi vườn tao nhã, mà ngày nay điêu tàn chẳng
còn có một cụm hoa. Trụ đá A Dục thì hư hoại mất đỉnh, đền Mayā u ám phủ che,
nền tự viện xưa rêu rong đổ nát. Có lẽ, chỉ có hồ nước tắm Phật còn gắng gượng
giữ được nét nên thơ hầu cây Bồ Đề trơ trọi có nơi soi bóng. Tôi phân vân tự
hỏi: "Nếu không thể kiến tạo Lâm Tỳ Ni thành một ngôi vườn xinh xắn hoa lá xum
xuê, thì tại sao những vị có trách nhiệm không thể trồng nổi một cây Vô Ưu?"
Sự hiện hữu của cây thiêng liêng nầy, dù sao cũng gợi lại chút hình ảnh ngày
đản sanh, lại vừa mang lại màu xanh tươi mát cho cả khu vườn.
Rời Lâm Tỳ Ni trong niềm
chua xót không nguôi, chúng tôi hấp tấp tìm đến ngôi chùa Việt Nam của thầy
Huyền Diệu. Thăm được thầy, hàn huyên năm ba câu, chưa vào chùa lễ Phật thì
người hướng dẫn đã hối thúc lên đường với lý do là biên giới sẽ đóng cửa đúng
7 giờ.
CHIÊM BÁI CÂU THI NA
Xe bus đưa chúng tôi trở lại
Ấn Độ, nghỉ đêm tại một khách sạn rất bình dân tại tỉnh Gorakpur. Sau một đêm
làm quen với dán và chuột, chúng tôi vội vã lên đường khi trời chưa sáng. Theo
lộ trình, xe bus đi ngang khu rừng cây thuộc thôn Pava để chúng tôi thoáng
nhìn địa điểm mà ngày xưa Đức Phật nhận thọ thực lần cuối cùng, một bát cháu
nấm heo rừng do người đốt than tên Thuần Đà (Chunda) dâng cúng; rồi tiếp tục
đi đến làng Câu Thi Na (Kushinagar), nghỉ ngơi tại khách sạn Lotus Nikko. Từ
đây cách thánh tích Đức Phật nhập Niết Bàn chỉ độ chừng năm trăm thước, nên
chỉ vài giờ sau, chúng tôi đã sẵn sàng đến nơi để khởi đầu cho một ngày chiêm
bái. Khu vườn nầy tương đối được chăm sóc khá tốt, cây cảnh xanh tươi…, ngoài
ra một ngôi đại tháp, một ngôi chùa cũng được trùng tu theo mô hình xưa, nên
toàn khuôn viên có vẻ đẹp vừa trang nghiêm vừa cổ kính. Có điều lạ, là cảnh
tuy đẹp nhưng bầu không khi ở đây lại buồn tênh ảm đạm lạ lùng. Có lẽ cái buồn
tự ngàn xưa vẫn còn lẩn khuất đâu đây. Tự nhiên, ai ai cũng trầm lặng, từng
bước theo nhau vào chùa Niết Bàn để hành lễ và chiêm ngưỡng tượng Phật nhập
diệt – tượng dài 6 thước, đầu hướng về phía Bắc, mặt nghiêng về hướng Tây; đây
là một tuyệt tác điêu khắc từ thời đại Gupta, đã tồn tại một cách nhiệm mầu
dưới những lớp gạch vụn. Tham dự nghi lễ trang nghiêm, chấp tay đi nhiễu quanh
pho tượng Phật linh động như hiện thực, chúng tôi ai cũng xúc động, nhiều vị
đã đầm đìa giọt lệ. Rời ngôi chùa cổ kính, tôi chiêm ngưỡng ngôi đại bảo tháp
hùng vĩ, rồi trầm ngâm ngắm hai cây Sa La còn sót lại tại địa điểm Phật thị
tịch ngày xưa. Ngày xưa chốn nầy là rừng Sa La, vào thời Ngài Huyền Trang
chiêm bái chỉ còn bốn cây, đến giờ nầy mà vẫn còn tồn tại hai cây là quý giá
vô song rồi. Sa La là một loại cây một gốc hai thân vì từ một thân cây tẽ ra
hai nhánh đồng nhau, trông như hai cây mọc sát bên nhau nên gọi là Sa La, dịch
nghĩa là Song Thọ, đẹp nhất là cây hướng Đông Nam có ra hai nhánh rất tương
xứng, ở xa nhìn cứ như là hai cây. Tôi bỗng nhớ đến truyền thuyết rằng ngày
xưa khi Đức Phật thị tịch giữa bốn cây Sa La Song Thọ, thì bốn cây Sa La nầy
một thân vẫn tươi tốt nở hoa, còn thân kia thì khô héo tàn tạ; thân tươi rụng
hoa, thân héo rụng lá phủ lên kim thân của Ngài. Bốn thân tươi tượng trưng cho
thường lạc ngã tịnh và bốn thân héo tượng trưng cho vô thường vô lạc vô ngã vô
tịnh. Tôi thầm nghĩ chính cái vô thường chuyển biến mới tỏ rạng nghĩa chân
thường, thì ra, tương tợ như cây Sa La thường là vô thường tuy hai mà một, tuy
một mà hai.
Rời thánh tích Phật nhập
Niết Bàn, phái đoàn ghé thăm chùa Linh Sơn, do sư cô Trí Thuận trụ trì. Đi đến
xứ lạ, gặp được chùa Việt, nói tiếng Việt "thả dàn", lại được sư cô đãi cho tô
mì gói rau muống, nên ai nấy đều cảm thấy vui vẻ hả hê.
Từ giã chùa Linh Sơn, phái
đoàn đi chiêm bái địa điểm làm lễ trà tỳ nhục thân Đức Phật. Thánh tích được
người xưa đánh dấu bằng một ngôi tháp vĩ đại. Ngày nay, tuy phần đỉnh đã bị
thời gian soi mòn nhưng tháp vẫn còn tồn tại và được bảo quản thành một công
viên có cảnh cây tươi đẹp. Phái đoàn đến trước bảo tháp hành lễ giữa cơn nắng
điên dại ban trưa. Cơn nắng chói chang hôm ấy có lẽ còn được cộng thêm bởi sức
nóng của lò thiêu năm xưa vọng lại nên có độ nóng thật kinh khủng, do đó, dù
cố gắng hết sức, sau hai mươi phút chịu đựng, tôi bắt đầu giải đãi mong cho
chóng xong. Ra về, leo lên xe máy lạnh tôi khỏe ra, nhưng từ lúc đó thì niềm
hổ thẹn cứ canh cánh bên lòng. Trong khi trằn trọc dỗ giấc ngủ, bỗng nhiên tôi
tưởng tượng ra hình ảnh Đức Phật, đầu trần, chân đất, áo mong manh… đang từ
tốn bước từng bước dưới cơn nắng thêu đốt, không phải chỉ một giờ, một ngày,
mà đã bền bỉ liên tục từ năm nầy đến năm khác…, cho đến ngày cuối cùng trên
cuộc đời. Ôi! Đức Thế Tôn thật là hy hữu! Lòng nhân từ của Đức Thế Tôn không
ngằn mé, nên người đã chọn đời ngũ trược ác thế của cõi Ta Bà để thị hiện tu
tập thành tựu đạo quả, rồi lại cũng vì chúng sanh mà chịu vô vàng khổ cực để
hoằng hóa cứu độ. Nghĩ đến đây, tôi vừa cảm phục, vừa thương… tự nhiên nước
mắt bỗng lưng tròng…
VIẾNG TỲ XÁ LY (VAISHALI)
Rời Câu Thi Na, trên đường đi
về thành phố Patna, phái đoàn chiêm bái trụ đá vua A Dục tại Tỳ Xá Ly. Trong
cảnh tượng hoang tàn của những nền móng chùa tháp đổ nát, trụ đá A Dục với
tượng sư tử nguyên vẹn trên đỉnh, vẫn sừng sững thách đố với thời gian. Sự tồn
tại nầy đối với niềm tin của tôi là một sự kiện nhiệm mầu nhằm chuyên chở một
ý nghiệm thiêng liêng nào đó. Trụ đá A Dục chỉ đặt ở những nơi có tầm mức quan
trọng, nhưng đến giờ chưa có tài liệu nào xác định được chốn nầy. Theo một tài
liệu cho biết thì nơi Đức Phật thuyết pháp kinh Duy Ma là một cái tháp tọa lạc
ở Tây Bắc Tỳ Xá Ly. Vị trí trụ đá A Dục cũng ở Tây Bắc và kinh Duy Ma có một
tầm quan trọng trong việc phát triển Phật giáo đại thừa. Như vậy hai nơi nầy
có phải là một chăng? Đây là câu hỏi cứ lẫn quẩn trong đầu tôi lúc đó.
Tiếp tục cuộc hành trình,
phái đoàn đến chiêm bái tháp chứa Xá Lợi Đúc Phật. Đây là ngôi tháp do vị lãnh
đạo đất nước nầy xây dựng sau khi được chia 1/8 Xá Lợi; phần lớn Xá Lợi đã
được vua A Dục cho lệnh lấy ra chia cho tám mươi bốn ngàn tháp nhỏ rải rác
khắp Ấn Độ. Ngày nay, tháp được bảo quản như một công viên, cây cảnh xin đẹp,
Xá Lợi còn lại trong tháp cũng được rào khóa kỹ, nên chúng tôi chỉ lễ bái từ
xa, chớ không thể chiêm ngưỡng được.
Huỳnh Trung Chánh
|