Đại Cương
Lịch
Sử Phật Giáo Trung Quốc
THÍCH TÂM
KHANH

A- Dẫn nhập
Nếu xem Phật
giáo (PG) như một thực thể văn hóa - tôn giáo sống động góp phần tạo ra văn
hiến - văn minh nhân loại thì chính vì lý do này đã khiến PG có nhiều khuôn
mẫu, hình thái rất khác nhau trong mỗi thời đại lịch sử và ở mỗi quốc gia khác
nhau. Từ nguồn cội Ấn Độ, PG đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách
đây hơn 2000 năm, PG đã có mặt tại Trung Quốc. Trên phương diện tổng quát, quá
trình du nhập - phát triển của Phật giáo Trung Quốc (PGTQ) có liên hệ mật
thiết với lịch sử phát triển PG của các nước trong khu vực, mà đặc biệt là PG
Việt Nam. Do vậy, tìm hiểu về lịch sử PGTQ giúp chúng ta rất nhiều trong việc
nghiên cứu lịch sử PG Việt Nam.
B- Nội dung
I- Phật giáo du nhập vào Trung Quốc
1)- Con đường du nhập của PG vào Trung Quốc
Về mặt địa
lý, PG đã theo chân các nhà sư truyền giáo Phạm Tăng được truyền đến Trung
Quốc theo hai ngả đường là đường bộ và đường thủy. Về đường bộ, chủ yếu là hai
con đường giao thông lớn: phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực. Về sau,
giữa hai con đường trên, còn có con đường "Nhập Trúc cầu pháp" của ngài Pháp
Hiển. Về đường thủy thì chủ yếu là từ các hải cảng ở tỉnh Quảng Đông(1).
2)- Niên đại du nhập
Hiện nay, có
rất nhiều thuyết khác nhau đề cập đến niên đại du nhập của PG vào Trung Quốc.
Có hai thuyết đáng tin tưởng hơn cả là thuyết Khẩu truyền PG của Y Tồn được
chép trong sách Ngụy thư Thích Lão Chí và thuyết Niên hiệu Vĩnh Bình
năm thứ 10 (67 TL) chép trong sách Hậu Hán Kỷ và sách Phật Tổ Thống
Kỷ.
- Theo
thuyết thứ nhất thì PG được biết đến ở Trung Quốc sớm nhất cũng từ năm thứ 2
trước Tây lịch (niên hiệu Nguyên Thọ năm đầu - đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán).
- Theo
thuyết thứ hai thì PG có mặt ở Trung Quốc từ năm 67 Tây lịch (niên hiệu Vĩnh
Bình năm thứ 10 - đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán).
Từ hai
thuyết trên, có thể nói PG được truyền vào Trung Quốc rất sớm, chủ yếu là theo
hai con đường thủy - bộ từ phía Bắc và phía Nam của các nước Tây vực vào thế
kỷ đầu Tây lịch.
II- Đại cương lịch sử phát triển của PGTQ
1)- Năm thời đại phát triển của PGTQ
Trên đại
cương, một số nhà nghiên cứu sử học PG hiện nay(2) đã theo những nét đặc trưng
của quá trình hoạt động PG mà phân lịch sử phát triển của PGTQ thành 5 thời
đại là:
a/- Thời đại
phiên dịch: từ khi PG bắt đầu truyền tới cho đến đầu đời Đông Tấn.
b/- Thời đại
nghiên cứu: từ đầu đời Đông Tấn cho đến thời đại Nam - Bắc triều.
c/- Thời đại
kiến thiết: từ đời Tùy đến đời Đường.
d/- Thời đại
kế thừa: kể từ đời Ngũ đại đến đời nhà Minh.
e/- Thời đại
suy vi: từ đời Thanh trở về sau.
Đến thời đại
Trung Hoa Dân quốc thì nhiều phong trào chấn hưng PG nổi lên tạo cho PG Trung
Hoa cận đại có nhiều bước phát triển.
2)- Các danh tăng và các sự kiện Phật giáo nổi bật của PGTQ qua 5 thời đại
a/- Thời đại phiên dịch
PGTQ thời kỳ
này bao gồm PG ở các đời Hậu Hán (25-220 TL); Tam quốc (220-280 TL) gồm hai
nhà Ngụy (220-265 TL), Ngô (222-280 TL) và Tây Tấn (265-317 TL).
PGTQ giai
đoạn này chủ yếu lấy việc phiên dịch làm công tác Phật sự chính. Tuy ở mỗi
triều đại, mức độ phát triển của PG có khác nhau, nhưng nhìn chung sự thành
tựu của các công trình phiên dịch đã dần định hình, tạo tiền đề cho các công
trình nghiên cứu ở thời đại sau. Trong thời đại này có các danh tăng kiệt xuất
xuất hiện với các công trình phiên dịch giá trị như sau:
- Đời Hậu Hán (25-220 TL)
Ca Diếp Ma
Đằng (Kàsyapamátanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) là hai vị Tăng Ấn Độ đầu
tiên đến Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 TL) thời vua Minh
Đế Hậu Hán. Trong khi truyền đạo tại miền Bắc Ấn, hai Ngài đã sang Trung Quốc
theo lời thỉnh cầu của phái đoàn 18 người do vua cử đến Tây Trúc tìm đạo. Khi
hai Ngài tới Trung Quốc, vua Minh Đế rất tôn kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã,
là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc, để hai Ngài phiên dịch kinh điển. Tứ
Thập Nhị Chương là bộ kinh đầu tiên được hai Ngài dịch tại chùa Bạch Mã.

Bạch Mã Tự tại Lạc Dương
Sau hai ngài
Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, được sự ủng hộ của Sở Vương Anh - người em
khác mẹ của Hán Minh Đế, nhiều vị Tăng và cư sĩ người Ấn khác cũng tới Trung
Quốc và tiếp tục các công trình phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn (chủ yếu là
Bắc Phạn, Sanskrit) sang Hán ngữ như ngài Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha), cư sĩ
An Huyền - người nước An Tức (Parthia), ngài Đàm Quả (Dharmaphàla) - người Tây
vực... Nổi bật trong số đó là các ngài An Thế Cao (Arsakes) và Chi Lâu Ca Sấm
(Lokaraksa), đến Trung Quốc vào đời vua Hoàn Đế cuối đời Hậu Hán. Đặc biệt, có
ngài Nghiêm Phật Điều là vị tu sĩ người Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công
trình phiên dịch kinh điển. PG đã dần dần được phổ cập trong dân gian.
- Đời Tam quốc (220-280 TL)
Sau đời Hậu
Hán, Trung Quốc chia thành ba nước là Ngụy, Thục, Ngô. PG trong thời kỳ này
phổ cập chủ yếu ở hai nước Ngụy và Ngô. Cũng như thời kỳ mới du nhập, các hoạt
động PG ở thời kỳ này chủ yếu vẫn là các công trình phiên dịch kinh điển.
Ở nước Ngụy,
có các bậc cao tăng có công phiên dịch và quảng bá giới luật đầu tiên là các
ngài Đàm Ma Ca La (Dharmakàla) và ngài Đàm Đế. Bộ Tăng kỳ giới bản của
ngài Đàm Ma Ca La và bộ Đàm vô đức Yết ma là hai bản giới pháp căn bản
đầu tiên của người xuất gia. Tuy vào thời Hậu Hán đã có tu sĩ người Hán, nhưng
người Trung Quốc được thọ giới luật theo các pháp Yết ma đầu tiên lại là ngài
Chu Sĩ Hành, người nước Ngụy. Cũng chính Ngài là Tăng sĩ Trung Quốc đầu tiên
sang Tây vực để cầu pháp, là người mở đường cho các chuyến "nhập Trúc cầu
pháp" của các thời đại sau này.
Các bậc cao
tăng thạc học của PG nhà Ngô nổi bật là ngài Khương Tăng Hội và cư sĩ Chi
Khiêm. Trước khi sang Ngô, ngài Khương Tăng Hội (Kang Seng-Hui) là một trong
những vị Tăng sĩ Ấn Độ đã có công đưa PG vào Việt Nam (thời đó gọi là Giao
Chỉ). Tác phẩm kinh điển của Ngài phiên dịch nổi bật còn lại đến ngày nay là
Lục độ tập kinh, cũng là nguồn sử liệu giá trị cho việc xác định niên
đại du nhập của PG Việt
Nam(3).
- Đời Tây Tấn (265-317 TL)
Theo bộ sách
Khai nguyên Thích giáo lục, PG đời Tây Tấn có nhiều vị Tăng sĩ rất có
công trong việc phiên dịch Tam tạng, nhưng nổi bật hơn cả là ngài Đàm Ma La
Sát (Dharmaraksa - Hán dịch âm là Trúc Pháp Hộ).
Sau hơn 3
thế kỷ, PG đã phổ cập trong nhân dân. Các cơ sở vật chất của PG như chùa, tháp
được xây dựng, số lượng Tăng Ni và tín đồ Phật tử tuy chưa nhiều nhưng đã đặt
nền móng vững chắc cho các thời đại PG sau này. Nét đặc trưng chủ yếu của PGTQ
thời đại này là các công trình phiên dịch kinh điển của các vị Tăng sĩ Ấn Độ
cũng như Trung Quốc.
b/- Thời đại nghiên cứu
Về phương
diện lịch sử, thời đại PG này bao gồm trong hai thời đại lịch sử Đông Tấn và
Nam - Bắc triều. Trong cả hai thời đại lịch sử này, PGTQ ngoài công tác phiên
dịch, đã dần bước vào nghiên cứu những giáo nghĩa trong kho tàng kinh luận PG.
Xu hướng nghiên cứu này được bắt đầu từ thời Đông Tấn. HT Thích Thanh Kiểm đã
nhận định: "Trong thời đại Đông Tấn, PG đều được phát triển trên cả hai phương
diện hình thức tín ngưỡng và tư tưởng giáo học. Vì trong thời đại này có nhiều
bậc Phạm tăng từ Tây phương tới, lại có nhiều bậc cao tăng của Trung Quốc xuất
hiện"(4).
Các bậc cao
tăng của thời Đông Tấn có rất nhiều. Nổi bật là các ngài Phật Đồ Trừng
(Buddhasimha), Đạo An, Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), Đạo Sinh, Tăng Triệu, Tăng
Duệ, Đạo Dong... của các nước Ngũ hồ ở phía Bắc Trung Quốc. PG nhà Đông Tấn ở
phương Nam có các ngài Tuệ Viễn, Giới Hiền, Phật Đà Ba La (Buddhabhadra)... Về
tổng quan, PGTQ thời đại này có các sự kiện nổi bật là:
- Phong trào "nhập Trúc cầu pháp"
Theo bước
chân của ngài Chu Sĩ Hành của thời Tam quốc sang Tây vực học đạo, phong trào
du học trong thời đại này đã phát triển khá mạnh với các vị nổi tiếng như ngài
Pháp Hiển, ngài Trí Nghiêm, ngài Bảo Vân. Nhưng đáng kể nhất vẫn là ngài Pháp
Hiển. Ngoài những kinh sách phiên dịch, tác phẩm Phật quốc ký (còn gọi
là Cao tăng Pháp Hiển truyện) là bộ sách tư liệu PG sử đầu tiên của
PGTQ.
- Giáo đoàn của PGTQ hình thành
Kể từ ngài
Chu Sĩ Hành, vị Tăng sĩ thọ giới đầu tiên của PGTQ, đến thời Đông Tấn, số
lượng Tăng sĩ đã phát triển rất nhanh và theo sau đó là sự gia tăng số lượng
chùa cảnh. Đã có 1.768 ngôi chùa lớn với 23.000 Tăng Ni trong thời kỳ này. Các
tổ chức Tăng đoàn do vậy cũng nhanh chóng được thành lập. Giáo đoàn PGTQ được
hình thành đầu tiên là tổ chức giáo đoàn của ngài Phật Đồ Trừng và sau đó là
của các ngài Thích Đạo An, ngài La Thập ở phía Bắc Trung Quốc. Về phương Nam
có tổ chức giáo đoàn "Bạch Liên xã" của ngài Tuệ Viễn. Các chức vụ Tăng như
Tăng chính, Tăng lục... cũng bắt đầu có trong thời kỳ này.
- Phiên dịch
bốn bộ kinh điển trọng yếu và sự phát huy của giáo lý Đại thừa - nền tảng cho
sự thành lập các tông phái
Có thể nói
PGTQ là nơi triển khai mạnh mẽ tư tưởng Đại thừa PG. Các kinh luận thuộc hệ
thống Đại thừa PG được phiên dịch và trở thành những bộ sách căn bản cho giới
học Phật nghiên cứu. Trong thời PG Đông Tấn (kể cả 16 nước thuộc Ngũ hồ ở
phương Bắc Trung Quốc), có 4 bộ kinh quan trọng được phiên dịch là kinh Bát
Nhã (bao gồm đại phẩm Bát Nhã và tiểu phẩm Bát Nhã) và kinh Pháp Hoa do ngài
La Thập dịch, kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm dịch, kinh Hoa Nghiêm
do ngài Giác Hiền dịch. Các bộ luận liên quan đến Bát Nhã được dịch trong thời
kỳ này là Đại Trí Độ luận, Trung luận, Thập Nhị Môn luận đều do ngài La Thập
dịch. Các kinh luận nêu trên cùng với một số kinh luận Đại thừa khác, sau khi
phiên dịch đã là các tác phẩm y cứ cho tư tưởng Đại thừa và ảnh hưởng mạnh mẽ
đến giáo nghĩa của các tông phái PGTQ các thời kỳ sau.
PGTQ trong
thời kỳ Nam - Bắc triều (420-588 TL)(5) tuy chịu nhiều thăng trầm do hai lần
bị "phế Phật" vào đời vua Võ Đế - Bắc Ngụy và vua Võ Đế - Bắc Chu, cũng như
các nghịch duyên về chiến tranh, nhưng nhìn chung PG vẫn phát triển về mọi
phương diện từ tư tưởng - tín ngưỡng, tổ chức giáo đoàn và các mặt văn hóa vật
chất như kiến trúc, điêu khắc, hội họa...
Các bậc danh
tăng của Nam triều có các ngài Phật Đà Thập (Buddhajìva), Cương Lương Da Xá
(Kàlayàsas), Câu Na Bạt Ma (Gunavarman), Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra)... của
nhà Tống. Ở nước Tề có các ngài Tăng Tuệ, Huyền Xướng, Tăng Già Bạt Đa La
(Sanghabhadra)... Đến đời Lương, vua Lương Võ Đế rất thâm tín PG. Do vậy, PG ở
Nam triều thịnh phát nhất trong giai đoạn này. Các bậc danh tăng trong và
ngoài nước có rất nhiều như Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều là những bậc
cao tăng người Trung Quốc .; Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma), Tăng Già Bà La
(Sanghapàla), Ba La Mật Đa (Paramàntha) tức ngài Chân Đế. Điểm đặc biệt là
trong thời nhà Lương, nhiều bộ luận PG quan trọng cũng được dịch, giảng, và
không khí nghiên cứu học thuật ấy còn được kéo dài cho đến PG đời Trần.
PG ở Bắc
triều khá phát triển trong quảng đại quần chúng. Do ảnh hưởng của hai pháp nạn
dưới thời vua Thái Võ Đế nước Bắc Ngụy (466 TL) và sau đó hơn 100 năm là của
vua Võ Đế nước Bắc Chu (560 TL), nên sự phát triển của PG không có tính ổn
định như PG Nam triều. Tuy vậy, không khí sinh hoạt của PG không vì thế mà bị
tắc trệ. Hàng ngàn bậc danh tăng từ Tây vực và Ấn Độ vẫn đến Trung Quốc. Nhiều
bộ kinh, luận được phiên dịch từ thời Đông Tấn hoặc trong đương đại đã trở
thành kim chỉ nam lập tông cho các tông phái PG như Niết Bàn tông lấy giáo
nghĩa kinh Niết Bàn làm chỗ y cứ, Thành Thật tông theo bộ luận Thành Thật để
lập tông. Các tông phái PG khác cũng theo khuynh hướng trên mà thành lập như
Tỳ Đàm tông, Tam Luận tông, Tịnh Độ tông, Địa Luận tông, Thiền tông...
Như vậy, có
thể nói không khí nghiên cứu học thuật của PG dưới thời Nam - Bắc triều đã
được nâng lên ở mức độ cao hơn và cũng phức tạp hơn. Đặc biệt là sự xuất hiện
của Thiền tông do Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma với tuyên ngôn "bất lập văn tự, giáo
ngoại biệt truyền" (không dựa vào văn tự, chỉ truyền riêng ngoài giáo) thành
lập. Điều này dường như phản ánh thái độ cách mạng tư tưởng của PG giai đoạn
này. Bởi lẽ, khi nghiên cứu học thuật trong PG một khi đã trở thành lối mòn
trí thức, gây nhiều tranh cãi luận lý, thiếu hẳn hơi thở của sự chứng nghiệm
thì sự ra đời của tinh thần chú trọng vào thực nghiệm tâm linh của Thiền tông
hẳn là hết sức cần thiết.
PGTQ thời
Đông Tấn và Nam - Bắc triều đã phát triển khá mạnh về mặt nghiên cứu học
thuật, thành lập tông phái và đặt nền tảng cho sự thăng hoa của PG trong các
thời đại sau. Đến thời Tùy - Đường, sự ổn định trong cơ cấu kinh tế - văn hóa
xã hội đã tạo điều kiện cho PG thực hiện những công trình Phật sự quan trọng.
c/- Thời đại kiến thiết
Cuối thời
Nam - Bắc triều, PG do ảnh hưởng của nạn "phế Phật" nên suy yếu trầm trọng.
Bước sang đời nhà Tùy, được sự ủng hộ của các vị minh quân Tùy Văn Đế và Tùy
Dạng Đế nên được phục hưng nhanh chóng. Sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc
viết: "Ngay sau khi tức vị, vua (Văn Đế) hạ chiếu dựng chùa ở các danh sơn
thuộc Ngũ Nhạc, và dựng một chùa công cộng lớn ở mỗi châu, gồm có 45 châu, đều
lấy tên là "Đại Hưng Quốc", công hứa cho dân gian được tự do đi xuất gia, nên
số Tăng Ni đã có tới 100.000 người" (sđd, tr.135-136). Sau khi Văn Đế băng hà,
tiếp nối truyền thống của vua cha, Tùy Dạng Đế cũng tận lực hưng long PG. Năm
Khai Hoàng thứ 11 (năm 591 TL), vua thọ giới Bồ tát với ngài Trí Khải, tổ chức
hội "Thiên Tăng trai" cúng dường cho 1.000 vị Tăng và sau đó đặt tên hiệu "Trí
Giả Đại sư" cho ngài Trí Khải. Tông Thiên Thai (Pháp Hoa tông) do vậy cũng
được hoằng truyền mạnh mẽ kể từ đời vua Tùy Dạng Đế. Các học phái, tông phái
có từ trước như Tam Luận tông có từ thời Đông Tấn giờ đây được cách tân thành
Tân Tam Luận tông do công của ngài Cát Tạng.
Các danh
tăng của các học phái nổi bật là các ngài Đàm Thiên của Nhiếp Luận tông, ngài
Đàm Diên, ngài Tuệ Viễn của Niết Bàn tông... Các công trình phiên dịch kinh
tạng vẫn tiếp tục với các ngài Na Liên Đề Xá (Nàrendrayasas), Xà La Quật Đa
(Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta). Đặc biệt PGTQ đời Tùy có các công
trình biên soạn để chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch từ trước như
Chúng kinh mục lục, Lịch đại Tam bảo ký của các ngài Pháp Kinh, Phi Trưởng
Phòng, Ngạn Tôn đều là các tư liệu rất giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử
PGTQ.
Từ nền tảng
của PG nhà Tùy, PGTQ đời Đường đã phát triển vượt bậc. Có thể nói đây là thời
kỳ PG phát triển mạnh mẽ nhất trong lịch sử PGTQ. Gần 300 năm (618-907 TL), PG
được các đế vương bảo hộ nên nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng xuất hiện tổ
chức các tông phái PG mang tính quy củ ảnh hưởng không những trong đương đại
mà còn đến tận các thời kỳ sau; không những trong phạm vi Trung Quốc mà còn
quảng bá đến các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Đó là Tịnh Độ
tông của ngài Đạo Xước, Thiện Đạo; Nam Sơn Luật tông của ngài Đạo Tuyên; Pháp
Tướng tông của ngài Huyền Trang và Từ Ân; Hoa Nghiêm tông của ngài Pháp Tạng;
Thiền tông của ngài Thần Tú và Huệ Năng; Mật giáo của ngài Thiện Vô Úy, Kim
Cương Trí và Bất Không. Sự nghiệp phiên dịch kinh điển và các tác phẩm trước
tác của ngài Huyền Trang đã vượt quá khuôn khổ PG trở thành một công trình văn
hóa - lịch sử của toàn nhân loại. Tác phẩm Đại Đường Tây vực ký (Tây du
ký) của Ngài là nguồn tư liệu vô giá cho khoa văn bản học, văn hiến học... và
các ngành khoa học lịch sử hiện nay. Có thể nói PGTQ kể từ đời Đường đã thoát
ra khỏi các tư tưởng PG từ thời đại Đông Tấn và Nam - Bắc triều và phát triển
thành một hệ tư tưởng mới mà về sau các ngài Nghĩa Tịnh, Bát Nhã, Thiện Vô
Úy... kế thừa. Tuy nhiên, cuối đời Đường, do chịu pháp nạn Võ Tôn phế Phật
(năm 842 TL) nên PG đã kém phát triển, không còn rực rỡ như các giai đoạn lịch
sử PG sơ Đường và thịnh Đường trước đó.
d/- Thời đại kế thừa
Sau thời kỳ
PG toàn thịnh của đời Đường, PG ở các thời Ngũ đại (gồm Hậu Lương, Hậu Đường,
Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu), Tống, Liêu - Kim, Nguyên, Minh vẫn phát triển
nhưng không được rực rỡ như trước. Chủ yếu tư tưởng của PG các thời đại lịch
sử nêu trên là kế thừa các thành tựu của PG đời Đường. Lần thứ tư trong lịch
sử PGTQ, PG lại gặp pháp nạn "phế Phật" vào đời Hậu Chu theo lệnh của vua Thế
Tôn Anh Mại (năm 955 TL). Ngoài ra, xu hướng thoái hóa trong tổ chức giáo đoàn
phần nào cũng tác động khiến PG thời đại này hầu như không tạo ra các giai
đoạn thăng hoa tư tưởng nào như PG đời Đường. Tuy nhiên, có thể nói PG từ Ngũ
đại đến đời Minh vẫn kế thừa được tư tưởng cơ bản của PG thịnh Đường. PG trong
thời đại này có các sự kiện nổi bật như sau:
- Sau suốt
200 năm gián đoạn, kể từ đời vua Đức Tôn cuối nhà Đường, công tác phiên dịch
kinh điển đến đời Tống lại được phục hưng. Dưới các triều đại Bắc Tống và sau
đó là Nam Tống, PG đã tiến hành công trình khắc in Đại tạng kinh PG. Trong
suốt đời Tống, tổng cộng có 5 lần khắc ván ấn hành Đại tạng kinh. Bản Đại tạng
kinh (thục bản) khắc vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (năm 983 TL) là bộ Đại
tạng kinh lịch sử đầu tiên của PGTQ.
Về sinh hoạt
của các tông phái PG thì trong các tông phái PG có từ trước, chỉ Thiền tông
vẫn duy trì và phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Các tông phái còn lại vẫn
hiện diện nhưng không đạt đến tầm vóc quốc tế như Thiền tông. Đến đời Nguyên -
Minh, Lạt Ma giáo của Mật tông Tây Tạng trở thành tông phái chính và có ảnh
hưởng khá mạnh trong xã hội. Vào đời nhà Minh, Đại tạng kinh Tây Tạng cũng
truyền vào và được chuyển ngữ sang chữ Hán. Tuy nhiên, chính do khuynh hướng
quá chú trọng các hình thức lễ nghi và biểu tượng hư ảo cộng thêm sự thoái hóa
trong tổ chức giáo đoàn đã khiến PG thời đại Nguyên - Minh dần dần thu hẹp sự
phát triển và khởi đầu cho thời đại suy vi của PG trong các giai đoạn sau.
e/- Thời đại suy vi và công cuộc chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Đại sư
Trong 12 đời
vua nhà Thanh từ Thế Tổ Hoàng đến đời vua cuối cùng là vua Tuyên Thống, suốt
gần 250 năm (1622-1911 TL), PG vẫn được xem như tôn giáo chính thống. Trong
các đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ Khang Hy, Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn
Càn Long, tông phái PG được chú trọng đặc biệt là Lạt Ma giáo (Mật tông).
Thiền tông và Tịnh Độ tông là hai tông phái còn có ảnh hưởng trong quần chúng.
PG dưới thời bốn vị vua trên đã có một số công trình Phật sự quan trọng mà nổi
bật nhất là công tác ấn hành và xuất bản Đại tạng kinh. Vào đời Thanh có ba
bản Đại tạng kinh được khắc in là Tục tạng kinh vào đời vua Khang Hy, Long
tạng bản khắc in kéo dài trong hai đời vua Thế Tôn Ung Chính và Cao Tôn Càn
Long; Mãn Châu văn Đại tạng kinh là bản Đại tạng kinh Hán được chuyển ngữ sang
chữ Mãn Châu, cũng hoàn thành trong thời vua Càn Long. Trong ba bản Đại tạng
kinh trên, hai bộ đầu được xem là có nhiều giá trị nghiên cứu.
Tình hình
giáo đoàn PG dưới thời nhà Thanh tuy đông đảo về số lượng tự viện và Tăng Ni,
nhưng về thực chất, tổ chức giáo đoàn khá lỏng lẻo, việc độ người xuất gia tùy
tiện khiến cho PG rơi vào tình hình "có lượng mà không chất". Sách Lịch sử
Phật giáo Trung Quốc viết: "Riêng về giáo học của PG thì không có gì phát
triển mới lạ, chỉ là duy trì các học thuyết của tiền nhân. Trong giới PG lại
không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni không có chí hoằng pháp. Hơn nữa, PG lại
bị tai nạn phá hủy của loạn "Thái Bình thiên quốc" nên PG ở đời nhà Thanh đã
bước xuống dốc suy vi"(6).
Sau loạn
Thái Bình thiên quốc, ngày 25-12-1911, Cách mạng Tân Hợi thành công đã mở ra
một thời đại mới cho nhân dân Trung Quốc, PG cũng theo đó mà có cơ hội phục
hưng. Ngay từ năm 1912, Hiệp hội Trung Quốc PG Tổng hội được thành lập tại
Thượng Hải; năm 1913, Trung ương PG Công h橠cũng
ra đời tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, mãi đến năm 1924, sự nghiệp vận động hộ pháp
mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ do công lao của các ngài Thái Hư, Ấn Quang, Đế
Nhàn, Đạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Vương Nhất Đình, Đại Bi... Đến tháng
8-1931, PG mới chính thức được sự bảo hộ của Chính phủ. Kể từ đó, PGTQ nhanh
chóng được phục hưng về mọi phương diện, từ tổ chức giáo đoàn, tông phái đến
các công trình Phật sự kiến thiết, trùng tu danh lam, văn hóa học thuật, xuất
bản Đại tạng kinh... Công cuộc vận động phục hưng PGTQ không những thành công
trong nước mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến PG trên thế giới. PG Việt Nam cũng do
đó mà thành lập nhiều tổ chức hội đoàn PG - Phật học trên cả ba miền Bắc,
Trung, Nam.
C- Kết luận
Lịch sử PGTQ
trên phương diện lịch đại đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Như lớp sóng
sau phủ lên lớp sóng trước, các giai đoạn PG đi sau luôn kế thừa, phát huy
những thành tựu của các giai đoạn PG trước đó tuy mức độ đậm nhạt có khác
nhau. Có thể nói PGTQ từ thời đại phiên dịch đến thời đại kiến thiết đã từng
bước đạt đến đỉnh cao mà thời kỳ rực rỡ nhất là triều đại nhà Đườâng. Từ thời
đại kế thừa trở về sau, PGTQ cũng đã duy trì được các thành tựu PG trong các
thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, đến đời Thanh, ngoài công trình Phật sự đáng chú
ý nhất là công tác in ấn xuất bản Đại tạng kinh, sự vắng mặt của các bậc cao
tăng khiến cho công tác quản lý và công tác tổ chức Tăng đoàn lỏng lẻo. PGTQ
thời kỳ này dường như đánh mất vị trí trong lòng người dân. Sự suy vi của PG
do vậy là điều không tránh khỏi. Các phong trào chấn hưng trong những thập
niên đầu thế kỷ XX của Thái Hư Đại sư đã đem lại cho PGTQ luồng sinh khí mới.
Từ đó đến nay, theo khuynh hướng ấy, PGTQ đã được phát triển nhanh chóng và
trở thành một tôn giáo có tầm ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân Trung Quốc.
Thích Tâm Khanh

Chú thích
(1)
Theo ý kiến của các học giả nghiên cứu sử PGVN hiện nay, PG đã du nhập vào
trung tâm Luy Lâu - Giao Chỉ (Việt Nam hiện nay) rất lâu trước khi truyền sang
trung tâm Bành Thành và sau đó là trung tâm Lạc Dương của nhà Hán.
(2) Thích
Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, TP HCM, 1991, tr.6-7.
(3) Xem
Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Lê Mạnh Thát,
1972.
(4) Lịch
sử Phật..., sđd, tr.47.
(5) Nam
triều gồm các nước Tống (420), Tề (479), Lương (502), Trần - Tùy (589). Bắc
triều có các nước Bắc Ngụy (439), sau chia thành Đông Ngụy (534) và Tây Ngụy
(535). Kế tiếp triều Đông Ngụy là Bắc Tề (550), kế tiếp triều Tây Ngụy là Bắc
chu (536). Về sau, Bắc Chu thôn tính Bắc Tề nhưng cuối cùng bị nhà Tùy diệt
vong.
(6) Lịch
sử Phật..., sđd, tr.271.
Sách đọc thêm
1- Lịch
sử Phật giáo Trung Quốc, tác giả Thích Thanh Kiểm, Thành hội PG TP HCM
xuất bản, 1991.
2- Lịch
sử Phật giáo thế giới, tập I (nguyên tác: Thế giới Phật giáo thông sử,
tác giả Thích Thánh Nghiêm, Việt dịch: Trung tâm Tư liệu Phật học - Phân viện
Nghiên cứu Phật học Hà Nội), Nxb Hà Nội, 1995 (xem Chương VII, từ tr.450 đến
tr.461).
|