VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO
DU NHẬP VÀO AFGHANISTAN
BÙI KHÁNH NHI
Afghanistan nằm giữa vùng Tây Á dân số
khoảng 20 triệu người, diện tích 647.497 km2, với dân số tuy ít
nhưng lại có nhiều chủng tộc như Puxtum, Tat-zit, U dơ bêch,… Ngôn ngữ chính
của Afghanistan là Puxtum, Ba Tư và thổ ngữ, thủ đô là Kabul. Trên châu lục
thì Afghanistan thuộc Trung Á, vì thế cho nên nó nằm ngay trên con đường xuyên
Silk-road (con đường Tơ lụa), rất thuận lợi cho việc giao dịch thương mại,
trao đổi văn hóa một số quốc gia lân cận. Có thể nói 300 năm trước Tây lịch
dưới triều đại Asoka, Phật giáo đã vượt khỏi biên giới Ấn Ðộ, và phát triển
rộng về phiá Nam, phiá Ðông và Tây Ấn Ðộ. Phiá Tây Bắc, Phật giáo du nhập vào
các vương quốc Hy Lạp, đó là các vùng Gandhara, Pakistan và Afghanistan. Ở thế
kỷ thứ I trước Tây lịch, một vùng đất rộng lớn bao gồm Bắc Ấn, Gandtara,
Afghanistan cho tới thung lũng sông Tarim do hoàng đế Kaniska cai trị. Vị vua
này là một tín đồ Phật giáo, dưới triều đại của ông đã tổ chức kết tập kinh
điển lần thứ IV ở Kashmir và cũng chính nhà vua đã cử những vị cao tăng đem
Phật giáo đến các vương quốc như Hy Lạp, Ai Cập, Syria… Tất cả những con đường
các quốc gia nêu trên phải đi ngang qua Afghanistan rồi Trung Á và truyền sang
Trung Hoa.
Vua Milanda gốc Hy Lạp từng trị vì ở
Bactria nay là một phần của Afghansitan, ông cũng là một Phật tử, thời đại của
ông sau Phật nhập Niết bàn khoảng 500 năm vào TK I trước Tây Lịch. Trong quyển
Na Tiên Tỳ Kheo (Milindalinda), ông được giới thiệu như là một vị vua của
người dân Yonakas, đây là một từ riêng lúc ban đầu chỉ cho người Hy Lạo có mặt
tại Ionia (Tiểu Á ngày nay) nhưng về sau, từ Yonakas có nghĩa mở rộng hơn chỉ
cho người Hy Lạp nói chung. Ðất nước của người Yonakas và Kambojas được đề cập
trong kinh Trung Bộ (kinh Assalayana), cho biết ở hai xứ này thay vì có 4 giai
cấp như Ấn Ðộ, họ chỉ có hai giai cấp, đó là chủ nô và nô lệ.
Như chúng ta biết sau kết tập kinh điển
lần thứ III ở Pataliputra dưới triều đại Asoka, các nhà truyền giáo Phật giáo
đã được cử đến đất nước của người Yanakas gồm có vương quốc của Gonatas ở
Mexedonia, sự kiện này được ghi trên các trụ đá thứ 2 và thứ 13 của Asoka.
Trong các trụ đá của Asoka có ghi tên vị tu sĩ Dhmamarakkhita người gốc Hy Lạp
được cử tới xứ Aparantaka để truyền đạo. Như vậy cho chúng ta biết khoảng 200
năm trước Milinda, người Hy Lạo đã biết đến đạo Phật và chính vì hoài nghi về
số điểm trong nền giáo lý đạo Phật mà vua Milinda đã có cuộc vấn đạo với vị Tỳ
kheo Na Tiên (Nagasena) và sau khi được giải thích, nhà vua trở thành một Phật
tử thuần thành. Sau 17 năm ở ngôi vua, ông đã xuất gia đạt được quả vị A la
hán.
Trong các tài liệu sử ghi lại, vương
quốc của Milinda gồm vùng thung lũng Kabul (thủ đô của Afghanistan ngày nay),
Peshawar, Punjab, Sindh, Pradesh, đây có thể nói là một vùng rộng lớn thuộc
Tây Ấn Ðộ và Pakistan hiện nay. Ngoài cuộc vấn đáp đạo lý nổi tiếng giữa nhà
vua và Na Tiên Tỳ kheo, nhà vua còn cho xây dựng một tu viện mang tên tu viện
Milinda, cúng dường cho vị cao tăng Na Tiên, đồng thời ông cũng cúng dường
rộng rãi cho chư Tăng trong xứ thời bấy giờ. Nhà sử học Plutarch ghi lại rằng
vua Milinda qua đời như một vị xuất gia, các đô thị Ấn Ðộ đã chia nhau xá lợi
nhà vua để tôn thờ.
Ðiều có ý nghĩa lớn là những đồng tiền
đúc của vua Milinda đều mang biểu trưng bánh xe pháp Dharmacakra. Bia ký
Shinkot cho biết vua Milinda đã có công lớn trong việc truyền bá đạo Phật giữa
hai vùng Hindukouch va Sindh (theo History of culture of India people, quyển
II trang 112 và quyển Political history of ancient India – 1955, trang 382).
Nhà sử học này cho rằng triều đại của Milinda rất được nhân dân mến mộ trong
chính sách cai trị của ông.
Sau vị vua Milinda có một ông vua Ấn độ
là một Phật tử (gồm cả vùng Afghanistan và Trung Á) đó là hoàng đế Kaniska,
ông thuộc bộ tộc Yueh-chi (Kushans) Trung Hoa gọi là Nguyệt Thị, từng cư trú
vùng Tân Cương (Trung Quốc), vị tù trưởng Yueh-chi cũng gọi là bộ tộc Kusana
đầu tiên chiếm lĩnh và cai trị Bắc Ấn Ðộ là vua Kadphises I cũng là một Phật
tử, những đồng tiền đúc dưới thời ông đều có dòng chữ DHARMATHIDASA (tin thuần
thành ở Pháp). Chính vì sanh ra trong dòng họ tin Phật như vậy cho nên Kaniska
lên ngôi mang niềm tin Phật giáo trong việc cai trị đất nước.
Triều đại Kaniska (78-101 trước Tây
lịch) là một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Ðộ.
Nó đánh dấu sự hưng khởi của Phật giáo Ðại thừa và sự ra đời của những sáng
tác văn chương Phật giáo với những tên tuổi sáng chói như : Parsa, Asvaghosa
(Mã Minh), Thế Hữu (Vasumitra)… Trong lĩnh vực nghệ thuật, đây là thời kỳ các
trường phái nghệ thuật Gandhara với nhiều tượng Phật và Bồ tát mang nghệ thuật
vóc dáng Hy Lạp cổ đại. Chính dưới triều đại Kaniska, Phật giáo được truyền bá
rộng rãi ở Trung Á và Ðông Á với sự bảo trợ của nhà vua, hoạt động hoằng pháp
không ngừng được đẩy mạnh trong một vương quốc rộng lớn từ Trung Ấn Ðộ ngang
qua Afghanistan đến các vùng Trung Á.
BÙI KHÁNH NHI
Chân thành cảm ơn bạn
đọc Quảng Tấn đã gởi bài
viết này đến trang nhà!
|