Sự đối thoại giữa
PHẬT GIÁO VÀ PHÚC LỢI XÃ HỘI
Thích Giải Hiền
I. Phật giáo và xã hội hiện đại
1. Xã hội sung túc về vật
chất
Theo đà phát triển của xã hội, cuộc
sống vật chất ngày một sung túc hơn. Người Phật tử đã từ giai đoạn cầu nguyện
cho sự may mắn và phúc báo của tự thân chuyển dần sang giai đoạn biết đem tài
sản và năng lực của mình ra để cống hiến , phục vụ
tha nhân và xã hội. Cũng trên đà phát triển ấy máy móc được
thay thế cho sức người. Do vậy, không cần phải dùng nhiều thời gian
nhưng năng suất lao động vẫn nâng cao, người lao động có nhiều thời gian để
nghỉ ngơi hơn.
Trong cuộc sống,
người Phật tử đã tận dụng thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn ấy để tu tập và tham
gia các hoạt động phúc lợi phục vụ cho nhân quần vã xã hội. Trong sự phát triển không ngừng ấy, nhất là trong thời đại thông
tin và giáo dục được phổ cập như hiện nay, đã tạo ra rất nhiều cơ hội học tập
và tiến triển cho quần chúng Phật tử và kể cả đoàn thể tăng già cũng
không ngừng tiếp thu những
cơ hội học tập và phát triển ấy đã từng bước thúc đẩy trình độ tri thức và tố
chất của đoàn thể tăng già lẫn Phật tử có nhiều chuyển biến tôt, với trình độ
tri thức cao, họ hiểu rõ hơn về Phật Pháp và nhận chân ra rằng cống hiến và
phục vụ tha nhân chính là hạnh phúc của bản thân.
2. Những thay đổi đã nảy sinh
nhiều vấn đề mới làm uy hiếp cuộc sống
Với truyền thống và quan niệm của
xã hội phương Đông, người ta cho rằng muốn tiến thân và có được chỗ đứng
trong xã hội chỉ có một trong hai con đường để chọn lựa - đó là: làm chính trị
(nghĩa là làm quan) hoặc là làm kinh tế. Nhưng với quan niệm
của xã hội hiện đại ngày nay - điều đó không còn là yếu tố quan trọng và quyết
định nữa, mà trong xã hội hiện nay, người ta có thể độc lập lấy việc phục vụ
làm nghề nghiệp chuyên môn để cống hiến và khẳng định thế đứng của chính mình
trong xã hội.
Mặt khác, trong
xã hội hiện nay - kết cấu truyền thống của gia đình về mọi mặt đã chịu sự tác
động mạnh và thay đổi rất lớn. Tỷ như quan niệm -
"con là lộc" hay "trời sanh voi - trời sinh cỏ" đã thay đổi
làm cho số lượng nhân khẩu trong gia đình ngày một ít hơn. Kết cấu gia
đình là một đơn vị kinh tế "tự cung- tự cấp" trước đây đã không
còn, làm cho giá trị và chức năng của gia đình bị thấp đi. Do đó - đã xuất hiện
nhiều nhu cầu mới, mà những nhu cầu
đó không thể hoàn toàn dựa vào nguồn cung ứng từ gia đình được như giáo dục,
học đường, bịnh viện, y tế... Từ đó đã đưa con người đến với quan niệm và
phương thức sống mới là cần phải có sự tương tác hỗ trợ giữa những ngoài gia
đình với nhau.
Cùng lúc đó -
tuổi thọ của con người trong xã hội ngày nay được nâng cao. Khi con người sống lâu hơn đã hình thành nên những quan niệm và
nhu cầu mới mà ở những xã hội
trước đây chưa từng có như việc cung ứng nhu cầu học tập lâu dài của con người
theo mức độ thăng tiến ngày càng cao của cuộc sống, hay việc làm thế nào để
đáp ứng đầy đủ những ý nguyện muốn được tiếp tục phục vụ của các cá nhân
trong xã hội. Hơn nữa, việc "lão hoá"
trong xã hội đã đưa đến một nhu cầu rất lớn là phúc lợi xã hội dành cho người
cao tuổi cũng vô cùng cấp thiết. Ngay cả vấn đề
"dưỡng sanh tống tử" cũng là một nhu cầu không thể thiếu trong
xã hội hiện đại.
Những yếu tố
nguy hiếm mới không ngừng phát sinh trong xã hội ngày nay theo tốc độ thay đổi
phi thường của cuộc sống hiện đại. Con người đứng trước hoàn cảnh luôn
biến đổi ấy đã nảy sinh trạng thái lo âu và tình trạng bị dồn nén về tâm lý,
hoang mang trước tương lai của cuộc sống.. . Tất cả những yếu tố nguy hiểm trong xã hội trước đây thường xuất
phát từ bản thân của mỗi người nhưng trong cuộc sống hiện tại - những nguy cơ
không hiển nhiên là từ nơi bản thân của chính mình mà những yếu tố khách quan
và hoàn cảnh cuộc sống đã đem lại cho con người hiện nay nhiều nguy cơ mới
trong cuộc sống, làm cho họ lúc
nào cũng phải cần đến sự hỗ trợ của những người xung quanh mình.
Một vấn đề quan
trọng nữa trong cuộc sống hiện nay là "tình người ngày thêm bạc bẽo
hơn". Với tốc độ "đô thị hoá" hiện
nay và cuộc sống công nghiệp đã đưa người ta đến tình trạng xa lạ với người
xung quanh "đèn nhà ai nấy tỏ, ngõ nhà ai nấy hay". Mọi người ngày một trở nên xa lạ nên càng không cảm thấy an toàn
trước người khác, "tinh thân nhân văn" bị đánh mất, con người không
còn để ý đến vấn đề đạo đức chung, nội tâm của con người ngày thêm trống vắng,
lo lắng, lâu dần không còn cảm nhận được ý nghĩa và niềm vui trong cuộc sống.
Tiền bạc nhiều hơn nhưng nguy hiểm cũng không ít.
Đó là những vấn đề mà con người
trong cuộc sống hiện nay đang đối mặt. Nói cách khác cũng chính là Phật giáo chúng ta đang đối mặt.
Trước thực trạng đó - chúng
ta nhận thức rằng:
II. Phật giáo cần làm gi , dùng cái gì để
phục vụ xã hội và nhân quần
1. Tài sản của Phật giáo
Phật giáo có
nguồn tài sản quý giá làm nền tảng để đối mặt, dấn thân vào phục vụ, cải hoá
cuộc sống xã hội và nhân quần. Nguồn tài sản quý giá
đó chính là giáo nghĩa Từ
bi, Khoan dung, Lợi tha, Tế chúng, "phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư
Phật".
Phật giáo có một đoàn thể tăng
đoàn nhiều về số lượng, lại sung mãn về tinh thần "vô tư bất vụ lợi",
hy sinh lợi ích cá nhân cho xã hội và nhân quyền "vô ngã vị tha". Đội ngũ tín đồ Phật Giáo cũng vô cùng
hùng hậu, lại thấm đượm ý chí vì "hạnh phúc của tha nhân" - hiểu và
tu tập thực hành theo hạnh nguyện Bồ tát "hành lục độ, lợi quần
sinh".
Về tổ chức các
cơ cấu tổ chức đoàn thể của Phật giáo là những tổ chức đã được hình thành
trên nguyên tắc vô tư và cống hiến nên là những đoàn thể được xây dựng trên nền tảng "hiệp lực tổ chức"
rất dễ hợp tác với tất cả các đoàn thể khác cung một mục tiêu phục vụ xã hội
và nhân sanh. Trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại
và phát triển tự thân Phật giáo đã tích luỹ cho mình một nguồn tài sản quý
giá về vô hình lẫn hữu hình để đủ sức đón nhận và cải hoá cuộc sống mới.
2. Đối tượng phục vụ của Phật
giáo
Đối tượng phục
vụ của Phật giáo có thể là chính những tổ chức của bản thân Phật giáo ví như
Tăng đoàn hay tín đồ Phật giáo. Ngay chính trong nội bộ Phật giáo phải chú trọng đến việc phục vụ cho
đoàn thể tăng đoàn như việc hạn chế xây dựng chùa chiền đem nguồn tài chánh ấy
để xây dựng bịnh viện, trạm xá, trường học .. . vừa để phúc lợi cho ngay nội bộ tổ chức Phật giáo,vừa để
phúc lợi cho những tổ chức khác trong xã hội ngoài Phật giáo.
Đối tượng phục
vụ của Phật giáo là phạm vi nội địa quần chúng xung quanh - những cơ sở Phật
Giáo đang trú đóng, nâng dần lên phạm vi cả nước và mở rộng ra ngoài lãnh thổ vượt qua sự hạn cuộc
của biên giới hướng đến phúc lợi quốc tế theo tinh thần "từ bi vô
ngã" của Phật giáo. Ngoài ra - đối tượng phục vụ
của Phật giáo là các dân tộc
thiểu số ở vùng cao, vùng biên, những người di dân đang cần sự nâng đỡ.
Những đối tượng là người hợp tác lao động từ nước khác đến
(đối tượng này ở Việt nam chưa có, vì là nước xuất khẩu lao động) nhưng phải
chú trọng đến việc giúp đỡ cho người Việt nam đi lao động hợp tác ở các nước
khác.
3. Tổ chức phục vụ của Phật
giáo
Tổ chức phục vụ của Phật Giáo là
những tổ chức sau:
Tăng đoàn: Về tăng đoàn phải xây dựng thành đoàn thể
tăng đoàn vì xã hội phục vụ. Điều này cần phải có sự cải đổi trong kết cấu của
tăng đoàn như xây dựng tăng đoàn thành những cơ cấu:
Tu tập tu
sĩ: Gồm những vị lớn tuổi, hay những vị có trình độ chuyên môn xã hội
thấp.. . chỉ tập trung vào
việc tu tập làm chính.
Hoằng
pháp tu sĩ: Là những vị chuyên việc thuyết giảng và xây dựng phát triển
công tác xã hội thấp.. . chỉ
tập trung vào việc tu tập làm chính.
Phục vụ tu sĩ: Gồm những vị có chí nguyện
và khả năng chuyên môn, đem tri thức của bản thân phục vụ cho mọi lĩnh vực của
xã hội.
Tín đồ:
Phải tổ chức thành nhiều
đoàn thể khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu tụ tập và phục vụ của Phật giáo.
Ngoài ra Phật giáo cần pháp nhân
hoá những tổ chức của mình như bịnh viện, trường học, nhà xuất bản.. . nhằm phục vụ đắc lực và hiệu
quả cho công tác phúc lợi xã
hội của Phật giáo. Đồng thời, Phật giáo cũng phải xây dựng những bộ phận có
trình độ và năng lực để hợp tác với các đoàn thể khác trong công tác phục vụ
xã hội gọi là bộ phận hợp tác, hay bộ phận chi viện để giúp đỡ các đoàn thể
khác cùng phục vụ xã hội.
2. Vấn đề quản lý các tổ chức phục
vụ của Phật giáo:
Khi có các tổ
chức trực thuộc Phật giáo vấn đề mấu chốt là phải quản lý các tổ chức ấy như
thế nào cho tốt. Dù là tổ chức từ thiện phục vụ xã hội
nhưng nếu quản lý không tốt sẽ
ảnh hưởng đến danh tiếng của Phật giáo và kết quả phục vụ sẽ không cao.
Phải quản lý có phương pháp và tự quản lý tốt các bộ phận
thuộc tổ chức Phật giáo để đề phòng sự lợi dụng của các cá nhân dùng danh
nghĩa của Phật giáo để mưu lợi riêng.
Làm thế nào để sử dụng và phát triển tài sản của Phật
giáo trong công tác phục vụ xã hội nhằm đạt hiệu quả cao nhất là vấn đề vô
cùng cấp thiết, có nên đưa nguồn tài sản ấy vào đầu tư kinh doanh có quản lý
hay không đang và sẽ là vấn đề cần đầu tư nhiều suy nghĩ để tìm ra phương
pháp hữu hiệu nhất.
Việc quản lý
tài sản còn đặt ra ở phương diện xây dựng, trong vấn đề xây dựng chùa chiền
phải có sự giám sát, quản lý. Đồng thời, công trình
xây dựng phải chú trọng đến việc sau
này có thể sử dụng vào lãnh vực giáo dục và phục vụ để phát huy cao độ hiệu
ích của nguồn tài sản này.
Các bộ phận trực thuộc Phật giáo
phải cần được pháp nhân hoá như các quỹ từ thiện, giáo dục, văn hoá phải đưa
vào hệ thống pháp luật, pháp nhân hoá thành CƠ KIM HỘI (quỹ) để giám sát và quản
lý có hiệu quả. Tránh tình trạng bị cá nhân đem sử dụng vì
mục đích khác.
3. Sự hạn chế trongviệc phục vụ
xã hội của Phật giáo
Vì mục dích đặt
ra là không tham doanh lợi, không buôn bán nên làm thế nào để có được một nguồn
ngân quỹ to lớn, cố định không bị ảnh hưởng của việc kêu gọi cúng dưỡng, quyên góp là vấn đề bị hạn
chế rất lớn. Mặt khác, sự cạnh tranh với các đoàn thể
khác Phật giáo bộc lộ nhiều nhược điểm như chuyên môn và phương hướng phục vụ
Phật giáo không bằng các đoàn thể tôn giáo khác. Cộng
thêm vào đó là hình thức phục vụ của Phật giáo thường là truyền thống và
không hiện đại.
Sự hạn chế
trong lãnh vực nhân sự cũng cần được khắc phục và để phát triển nguồn nhân lực
Phật giáo cần có kế hoạch bổ dưỡng xây dựng nguồn nhân lực không hạn cuộc trong nội bộ tu sĩ và tín đồ
của mình. Phải mở ra nhiều phương hướng và kế hoạch mới nhằm thu hút
và bổ sung nguồn nhân lực.
Trên phương diện
giới luật và giáo nghĩa đôi khi cũng đưa đến sự hạn chế trong việc phục vụ xã
hội của Phật giáo như làm thế nào để kinh doanh nguồn tài sản của Phật giáo nhằm khắc phục sự ảnh
hưởng trong vấn đề kêu gọi đóng góp thường bị chi phối bởi hoàn cảnh kinh tế
cá nhân và đôi khi bị ảnh hưởng tác dộng của các cơ quan thông tin báo chí..
. mà vẫn phù hợp với giáo nghĩa và giới luật của Phật
giáo.
4. Nội dung, phương thức và
nguyên tắc phục vụ của Phật giáo
Nhằm tạo được sự
tin tưởng của xã hội đối với các tổ chức Phật giáo, vấn đề quan trọng là phải
có được tính lâu dài và bền bỉ trong các loại phục vụ. Ngoài ra cũng cần có các loại phục vụ mang tính cấp thời nhằm khắc
phục một cục diện nào đó, đồng thời cũng cần có các loại hình thức phục vụ đặc
biệt nhằm vào một nhóm đối tượng đặc biệt nào đó.
Về phương thức
có thể là chủ động từ Phật giáo đứng ra tổ chức, cũng có thể là trước một
tình hình nào đó Phật giáo nhận lời yêu cầu của các đoàn thể xã hội mà đứng
ra đảm nhận. Ngoài hai phương thức trên, Phật giáo
cũng có thể chọn các phương thức sau để tham gia như tài trợ giúp đỡ trên một
vài phương diện nào đó để các đoàn thể khác đứng ra tổ chức nếu tự thân Phật
giáo không có khả năng tự tổ chức, hoặc uỷ thác cho các đoàn thể khác đảm nhận hay cũng có thể
là liên kết với các đoàn thể khác để cùng đảm nhận.
Các tổ chức trực thuộc Phật giáo
có thể phục vụ xã hội trên tất cả mọi phương diện như thành lập các cơ quan
thông tin, báo chí, đài truyền thanh, truyền hình, trường học, bịnh viện, cơ sở văn hoá xã hội
hay phục vụ tại các cơ quan nói trên nếu không thể tự thành lập được. Ngoài
ra - cũng có thể phục vụ nhằm vào các lãnh vực đặc thù như nhà lao, quân đội,
nạn nhân, người già, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ, dân tộc thiểu số, người
ngoại quốc, người có thu nhập thấp (xóa đói giảm nghèo.. .) các tổ chức dân
gian khác. . .
Nguyên tắc cần
tôn trọng là lấy nguyên tắc đề phòng làm ưu tiên vượt qua sự giới hạn của các
thuộc tính như màu da, giới tính, tuổi tác. . . Phải
công khai minh bạch các quyết sách và tài chánh. Người tham gia là
thành viên trong các tổ chức phục vụ xã hội của Phật giáo phải tuân thủ
nguyên tắc căn bản là phải sống đời sống thanh bạch và liêm khiết. Phải biết trân trọng và nâng cao hiệu quả nguồn tài sản mà các
nhà hảo tâm đã đóng góp. Phải chú ý và nâng cao tinh
thần văn hoá và tinh thần nhân văn trong mọi hoạt động phục vụ.
III. Kết luận
Trước thời đại mới - Phật giáo đối
mặt, dấn thân xây dựng và cải hoá bằng nền tảng "trí tuệ từ bi" để
"tịnh hoá nhân tâm" xây đắp "nhân gian tịnh độ". Công tác phục vụ xã hội của Phật giáo cũng nhằm vào mục tiêu cao
đẹp trên nền tảng vững chắc ấy.
Mặc dầu, trong thực tế hiện tại,
công tác phục vụ xã hội của Phật giáo trên một vài phương diện nào đó chưa được
kiện toàn, nhưng nếu tăng đoàn và tín đồ đồng tâm hiệp ý xây dung thì trong
tương lai - chuyển biến tốt nhất định sẽ đạt được.
Thích Giải Hiền
Du Học Tăng Việt Nam tại
Đài Loan
|