SỐNG THIỀN
Vĩnh Hảo

Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với
thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi
vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào
các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người
trí thức nữa.
Đó là điều đáng phấn khởi, đáng khích lệ,
nhưng mặt khác, cũng là điều đáng phải e dè vậy. Sự bí truyền khi được phổ
truyền thì được xem như một thành công trên mặt số lượng nhưng là một thất bại
trên mặt phẩm lượng. Bí truyền ở đây không có nghĩa Thiền chỉ được truyền dạy
trong vòng bí mật như kiểu người ta dạy bùa chú hay một môn thuốc gia truyền,
cũng không phải Thiền là cái gì bí nhiệm, mang tính thần quyền. Nhưng bởi Thiền
vốn là một phương pháp tu tập cao siêu đòi hỏi hành giả phải đủ ý lực và trí
lực để đeo đuổi, chứ không phải là một bài toán học, một công thức hay luật tắc
để có thể trao truyền và đón nhận một cách dễ dàng qua sự rao giảng giữa công
chúng. Thiền là lẽ sống và lẽ sống đó chỉ có giá trị với kẻ nào nắm được nó,
tức là sống trong nó, thể nghiệm nó.
Đã có người phê phán rằng Phật giáo đã được
phổ cập và đại chúng hóa nhờ vào Mật tông và Tịnh Độ tông, nhưng sự đại chúng
hóa này lại cũng là “bước đi sa đọa (xuống dốc) của tinh thần Phật giáo”.
Ngày nay, có lẽ Thiền tông cũng rập rình đi theo bước chân đó. Sa đọa ở đây
không có nghĩa là một thất bại tội lỗi, mà là một sai lầm bất đắc dĩ trong sự
cố gắng phơi bày một cách rộng rãi những gì không thể nói được nhưng vì lòng
từ bi, phải nói cho quần chúng được hiểu và đi theo. Từ sai lầm này kéo theo
sai lầm kia. Nhất là về phía những thiền sinh với nhân số vụt tăng khá
nhanh—những thiền sinh của đại chúng mà lối đi của họ dù khoác mặc dáng vẻ
thượng lưu kiêu kỳ nào vẫn không thoát khỏi tâm lý sùng thượng, mê tín của thời
kỳ tô-tem, bái vật. Người ta sẽ yêu cầu vị thiền sư giảng giải, phân tích chi
li về thiền sao cho dễ hiểu hơn; người ta sẽ đòi hỏi một phương pháp thực tập
thiền định sao cho mau được kết quả và thuận lợi hơn; và người ta sẽ phê
phán, chê bai, công kích các phương pháp tu tập (pháp môn) khác là đi sai
truyền thống (thậm chí là mê tín, tà đạo); người ta bám chặt vào để rồi tôn
thờ như vật tổ những gì vị thiền sư nói ra (dù là một câu ta thán về sự mê muội
cố chấp của tâm lý chúng sanh), không thích ai nói ngược lại với những gì
mình tôn thờ. Người ta tôn kính vị thiền sư thay vì đức Phật; tôn kính chữ
Thiền thay vì Pháp; tự tôn kính mình thay vì Tăng. Và sai lầm tai hại nhất là
người ta tưởng rằng mình đã có thể nắm bắt được thực tại tuyệt đối (bản thể của
thiền) qua những lời truyền giảng của vị thiền sư hay qua sự thông minh lý luận
của chính mình trong dăm ba cuốn sách thiền đọc được. Đó là những hiện tượng
và là tệ trạng có thật đã từng xảy ra trong giới học và tu thiền. Chê bai,
khinh thường những người tu theo pháp môn khác; tự hào mình là kẻ đi đúng đường,
kẻ khác lạc đường; vênh váo cho rằng mình, những người cư sĩ tại gia, có thể
sáng mắt vượt trội hơn các tăng sĩ trong chốn thiền môn; ngã mạn đem giáo lý
thiền để giảng giải cho tăng sĩ vì thấy những vị này chưa hề hé môi nói gì về
Thiền; khuyến khích tăng sĩ tu thiền vì thấy các tăng sĩ này không ngồi thiền
ở địa điểm và thời gian mà người khác có thể thấy biết được; lập dị ngồi thiền
lim dim ở nơi công cộng v.v... Những hiện tượng trên cứ lâu lâu lại xảy ra
như một phong trào khi có một vị thiền sư chân chính xuất hiện. (Mà còn xảy
ra nhiều hơn khi có một Thế Tôn hay Phật sống giả hiệu ra đời!) Hiện tượng,
phong trào, thường cuốn trôi bao người nhẹ dạ, yếu lòng và nhất là những người
nông cạn từ trí tuệ đến ý chí. Cho nên, Thiền hiện nay, như đã nói, trở thành
một môn học phổ thông (giống như phương pháp ăn gạo lức hay uống nước lạnh để
chữa bệnh) mà trình độ cạn cợt nào cũng có thể hiểu, nói và làm được. Điều
này khiến ngay cả vị thiền sư chân chính nhất cũng phải dè dặt trong sự giải
thích và giảng dạy Thiền cho môn đồ của mình—bởi vì ông ta không bao giờ muốn
định nghĩa Thiền, nhưng môn đệ của ông thì lúc nào cũng muốn có câu định
nghĩa để phân biệt, để tăng thêm kiến thức, tăng thêm vốn liếng thiền ngữ mà
đi rao truyền cho khắp nhân gian.
THIỀN
LÀ GÌ?
Có người đến hỏi vị thiền sư: “Thiền là
gì?” Vị thiền sư không đáp thẳng, chỉ rót trà mời khách: “Uống trà đi.”
Thiền là dòng sống lặng lẽ của tự tâm và
thiền sư là kẻ nắm chắc được dòng sống ấy—thực ra, ngay cả những lời vừa nói,
chẳng có lời lẽ dông dài hay đơn giản nào, có thể nói lên được ý nghĩa của
thiền nếu không nắm được dòng sống đó.
Thực tại vượt lên trên mọi lý luận. Người
ta không thể diễn đạt nó bằng ngôn ngữ vì ngôn ngữ chỉ là sản phẩm của tư tưởng,
mà tư tưởng chỉ là con đẻ của ý niệm nhị nguyên đối đãi. Ý niệm luôn luôn tạo
ra thế ly cách giữa chủ thể (năng) và đối tượng (sở). “Tôi tu thiền” hàm
nghĩa rằng có cái “tôi” ở ngoài “thiền” và có “thiền” ở ngoài cái “tôi”. Tôi
và Thiền trở thành hai thực thể đối lập, phân ly. Thể của của thiền thì tuyệt
đối, bất nhị (không có hai mà là một thể đồng nhất); còn ý niệm thì tương đối,
nhị nguyên. Không làm sao có thể định nghĩa hay diễn đạt cái tuyệt đối bằng
ngôn ngữ giới hạn của thế giới tương đối. Nhưng, vì phương tiện, vì dẫn đạo,
vị thiền sư buộc lòng phải dùng ngôn ngữ để nói với môn đệ của mình. Tuy
nhiên, ngôn ngữ đó, dù được buông ra trong miễn cưỡng, vẫn là một cố gắng để
nhắm thẳng vào tâm, gạt bỏ mọi lý luận (trực chỉ nhân tâm). Và như vậy, nó
không phải là cái có thể lập lại lần thứ hai cho một người khác. Phổ cập hóa
thiền đạo là vô tình giam bản thể vô tận (chân đế) vào thế giới hữu hạn (tục
đế). Bám chặt vào một lời dạy hay một phương thức đối trị đã được phổ cập là
đang đuổi theo cái bóng mờ của Thiền. Giảng giải, phân tích, mổ xẻ thiền đạo
là bắt thực tại đứng dừng một chỗ như một xác khô. Cái gì lặng đứng, khô chết
và có thể diễn tả được bằng ngôn ngữ thì không phải là thực tại tuyệt đối (Đạo
khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh—Lão tử Đạo đức kinh).
PHƯƠNG
TIỆN PHÁP MÔN
Thực tại tuyệt đối chỉ có thể cảm nhận, trực
nhận hay thể nhập chứ không thể đạt đến bằng suy tư và lý luận quanh co. Nó
không phải là tiêu đích hướng về bằng những con đường, những pháp môn. Có
chăng chỉ là tâm truyền tâm mà thôi (dĩ tâm truyền tâm).
Pháp môn để vươn tới thực tại tuyệt đối—nếu
có thể miễn cưỡng mà nói như vậy—không thể là pháp môn chung cho mọi căn cơ,
cho mọi trình độ. Nó chỉ xảy ra một lần duy nhất và hữu hiệu cho một môn đệ
nào đó và trong trường hợp nào đó mà thôi. Như thế, không thể nói có pháp môn
này cao hơn pháp môn kia, có pháp môn kia chân chính hơn pháp môn này. Kinh
Phật nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn vì lẽ đó. Người ta có thể nói pháp môn
là những phương tiện, những cánh cửa để thể nhập vào chân tâm, vào thực tại
tuyệt đối. Nhưng kỳ thực, để nằm trong lòng thực tại thì chỉ có
pháp-môn-không- pháp-môn (vô môn quan—cánh cửa không cửa) mới đưa vào được mà
thôi. Pháp môn không có cao thấp mà chỉ công hiệu hay không công hiệu. Viên
thuốc cảm sẽ có hiệu quả cho một người bị cảm nhưng không có giá trị cho người
bị đau bụng. Người bị cảm không thể chê trách người đau bụng sao không chịu uống
viên thuốc như mình; còn người đau bụng không chịu uống thuốc cảm thì thôi,
cũng không thể nói viên thuốc cảm là vô giá trị, bởi vì nó không công hiệu đối
với bệnh của mình nhưng sẽ công hiệu đối với bệnh của kẻ khác. Như thế, ngay
cả pháp môn mà người ta gọi là Thiền, cũng chỉ là phương tiện pháp môn như
bao nhiêu phương tiện khác. Tiêu đích chưa đạt được thì dựa vào đâu để có thể
cho rằng pháp môn của mình là đúng, pháp môn của kẻ khác là sai? Và làm sao
có thể khẳng định được rằng một phương pháp nào đó không mang tên là Thiền
thì không phải là Thiền?
THIỀN
TRONG CỬA THIỀN
Ngày nay, trong những người cư sĩ tại gia
theo học thiền, đã có người đến hỏi một tu sĩ ở chùa rằng: “Thầy có tu thiền
không? Theo tôi, thiền là pháp môn cao nhất và chân chính nhất của Phật giáo.
Sao thầy không hành thiền và hướng dẫn Phật tử tu thiền mà cứ tụng kinh niệm
Phật mãi vậy?”
Đó là câu hỏi lố bịch, ấu trĩ, y như người
ta hỏi vị bác sĩ rằng: “Này ông bác sĩ, ông có chữa bệnh cho bệnh nhân không?
Ông có làm công việc chữa bệnh không?” Bác sĩ có công việc của bác sĩ, tăng
sĩ có công việc của tăng sĩ. Công việc hàng ngày của tăng sĩ là tu tập (tức
là hành thiền) với mục đích giải thoát giác ngộ như Phật, theo phương pháp mà
kinh điển của ngài với sự truyền thừa của các vị tổ sư để lại, cũng như qua sự
hướng dẫn trực tiếp của một hay nhiều vị minh sư. Và đặc biệt nhất là qua sự
nỗ lực chân chính (chánh tinh tấn) của chính mình.
Tại Nhật Bổn và Trung Hoa, Thiền tông là một
trong mười tông phái lớn của Phật giáo (Luật tông, Thiền tông, Mật tông, Tịnh
Độ tông, Câu Xá tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Thành
Thật tông và Thiên Thai tông—Nhật Bổn có thêm hai tông phái khác nữa là Nhật
Liên tông hay Pháp Hoa tông và Chân tông hay Tịnh Độ Chân tông). Nhưng ở nước
ta, với dung hóa tính của dân tộc Việt Nam, Phật giáo không có sự phân chia
tông phái rõ nét. Các tự viện và chùa chiền ở Việt Nam đều được gọi chung là
Thiền môn (cửa thiền). Đúng như nhận xét của một vài bậc thức giả trước đây về
đặc tính sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam: sinh hoạt trong các chùa Việt Nam
dung hợp các pháp môn tu tập của các tông phái lớn mà ở nước khác người ta
phân chia rõ rệt. Một tu sĩ hay cư sĩ tại gia Việt Nam có thể chuyên tụng đọc
và tìm hiểu kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa tông), niệm danh hiệu Phật A Di Đà (Tịnh
Độ tông), đọc thần chú (Mật tông) và tọa thiền (Thiền tông) mà không thấy trở
ngại gì. Trong một khóa lễ tại các chùa Việt Nam, người ta thấy sự tổng hợp của
các thiền ngữ, các câu thần chú và danh hiệu Phật. Sự phân chia tông phái để
phát triển là nét đặc thù của Phật giáo Nhật Bổn và Trung Hoa, nhưng sự dung
hợp các tông phái cũng chính là chỗ độc sáng của Phật giáo Việt Nam vậy. Do
đó, các vị tu sĩ Việt Nam được huấn luyện từ nhỏ trong chùa sẽ không bao giờ
thắc mắc hay đặt vấn đề là mình tu Thiền hay tu Tịnh độ. Mục đích chính của
việc tu tập là để đạt đến giải thoát, còn pháp môn, tông phái, chỉ là phụ thuộc.
Đã có nhiều cuốn sách nói về Thiền học Việt
Nam tuy không phải là đầy đủ nhưng tưởng cũng rất rõ nét. Qua đó người ta thấy
ngay cả một chú tiểu ở chùa Việt Nam thường được giáo dục trực tiếp từ cuộc sống
thường nhật của vị thầy (thân giáo). Mỗi cử chỉ, lời nói, hành động của chú đều
được thầy quan sát và điểm hóa khiến cho đời sống của chú từng giờ từng phút
không lúc nào là không phù hợp và hòa nhập với lẽ đạo. Với ba ngàn cung cách
và tám vạn đức hạnh chi tiết (tam thiên oai nghi, bát vạn tế hạnh) được vị thầy
thân cận nhắc nhở, chỉ giáo, tác phong của chú từ giai đoạn nỗ lực tập trung
bước sang thành quả thuần thục thanh thoát lúc nào chính chú cũng không hay
biết. Khi chú đặt tách nước lên bàn hơi nặng tay, vị thầy có thể im lặng
không quở trách gì mà chỉ cần đặt lại tách nước trên bàn một cách cẩn trọng,
nhẹ nhàng, không gây tiếng động. Từ tác phong đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến
quét nhà, tưới rau, nhất nhất mọi việc chú đều có thểû học được từ nơi vị thầy.
Chú không biết là chú đang học và thực hành thiền đạo. Vị thầy cũng không bao
giờ nói là ông đã và đang dạy thiền cho chú. Nhưng, mọi động tác của vị thầy,
không động tác nào mà không nói lên sự tịch lặng của bản thể. Cả thầy lẫn trò
có thể suốt đời sống trong thiền mà không cần phải bàn tán, luận giải gì về
thiền cả.
Trải qua trên hai mươi năm hoặc trên nữa, sống
trong không khí tịch lặng giải thoát của thiền môn, chú tiểu đó đã trở thành
một vị thầy, sớm chiều kinh kệ công phu; ngày thì vì lòng từ bi phải sống với
người, tiếp xúc, an ủi vỗ về, hướng dẫn bao kẻ đau khổ, có khi phải tụng đám
ma cho người chết mất luôn cả ngày; đêm thì một mình tọa thiền, niệm Phật
trong phòng riêng, trên giường nằm, chưa một ngày xao lãng. Từ sáng đến tối,
các sinh hoạt của vị thầy ấy không có việc làm nào mà không nằm trong oai
nghi tế hạnh, không có việc làm nào nằm ngoài tinh thần và sinh hoạt truyền
thống của thiền môn. Lúc đó, chúng ta có cần phải đặt vấn đề với vị thầy ấy
là nên tu Thiền hay tu Tịnh Độ chăng? Câu hỏi sẽ làm cho vị thầy ngạc nhiên
và mỉm cười. Ngạc nhiên là có thể có một đời sống trong cửa thiền mà không có
thiền hay sao? Và mỉm cười để trả lời rằng thực ra không cần phải bàn cãi sôi
nổi về cái gì tự nhiên như không khí mà ta đang hít thở. Thiền đối với một tu
sĩ trong cửa chùa chẳng khác gì không khí đối với con người. Cần gì phải hỏi
lôi thôi, thừa thãi, vô ích!
KHÔNG
CÓ GÌ ĐỂ CHỨNG ĐẮC
(VÔ ĐẮC, VÔ SỞ ĐẮC)
Trước cuộc sống đầy dẫy bất an, nhiều người
đã tìm học thiền và cảm thấy được an ổn như được ngồi nghỉ sau những giờ mệt
nhọc. Họ bằng lòng với trạng thái ngơi nghỉ đó và cho rằng đã đạt được Thiền.
Với họ, giữ cho tâm đừng giao động lăng xăng là đã chứng nghiệm được thực tại
rồi. Họ sẽ kết luận rằng thiền là một cái gì đơn giản thôi: lắng lòng vào từng
phút giây sinh hoạt thường nhật với một tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng rồi sự
an lạc sẽ nở hoa ngay lúc đó. Trong khi kẻ khác bận rộn, lo âu, sợ hãi với những
quấy nhiễu thường xuyên của nội tâm và ngoại giới, thì họ, những người học
thiền thời đại, tìm được sự an lạc và hạnh phúc bằng cái tâm lắng đọng và
buông xả. Họ cho sự an lạc và hạnh phúc đó là tiêu đích tối hậu mà họ đã đạt
đến bằng một phương pháp chẳng mấy khó khăn. Thực ra, họ quên rằng vị thiền
sư của họ không phải đạt đạo và tìm thấy sự an lạc chỉ bằng những phương pháp
căn bản đó. Họ quên rằng vị thiền sư của họ đã trải qua thời gian tu tập khá
lâu với một hoàn cảnh thuận lợi trong cửa thiền. Họ quên rằng tâm tư của vị
thiền sư của họ từ mấy chục năm về trước cho đến giờ phút này đều hướng về
tiêu đích giải thoát giác ngộ chứ không phải chỉ học và hành thiền để làm lắng
dịu những bung xung tâm lý như họ. Họ quên rằng khi vị thiền sư giác ngộ
buông lời ra, lời nào cũng khế hợp với thiền đạo, nhưng không phải vì vậy mà
những lời ấy trở thành thiền ngữ khi được lặp lại bởi một kẻ phàm phu tục tử
chưa sống nổi một ngày trọn vẹn trong cửa thiền. Họ quên rằng vị thiền sư
giác ngộ nhìn thấy sự mầu nhiệm của vạn hữu là vì ông đang đứng trong lòng thực
tại và nhìn bằng con mắt trí tuệ siêu việt, chứ không phải chỉ nhìn bằng con
mắt thịt rồi mô phỏng, nhái lại và cuối cùng sẽ tưởng tượng ra sự mầu nhiệm của
muôn loài. Đúng ra, những tâm lý khinh an, hạnh phúc mà họ (những thiền sinh
hời hợt) có được cũng là một thành công nên khích lệ, nhưng đó không phải là
mục đích tối hậu của Thiền. Thiền quả là điều rất đơn giản như một vị thiền
sư đã nói “Bình thường tâm thị đạo” (giữ tâm bình thường tức là đạo vậy).
Nhưng nó không quá đơn giản đến độ chỉ trong câu nói bình thường ấy. Vị thiền
sư đắc đạo không cần phải sắp đặt hay uốn lưỡi trước khi nói vậy mà nói điều
gì ra cũng khế hợp với sự tịch tịnh của bản thể. Nhưng kẻ bình phàm chỉ mới tập
tành chuyện hít thở trong vài tháng hay đôi ba năm, hay mười năm, hai chục
năm, thì dù có lặp đi lặp lại câu nói của thiền sư đến triệu lần cũng không
dính nhập gì đến thiền cả; và không phải những hạnh phúc đơn giản kiểu được
Phật sống rờ đầu mà có, hay nhắm mắt tưởng tượng mà có, là hạnh phúc vĩnh cửu
của kẻ đã thực chứng thiền đạo. Bởi vì, thiền không phải là nghỉ mệt. Thiền
không phải là phó thác niềm tin và ý chí của mình cho bất kỳ đạo sư nào khác
(ngay cả bậc vô thượng sư duy nhất là đức Phật). Thiền không phải là thuốc an
thần. Thiền không ru ngủ người ta bằng những ảo giác hạnh phúc gặt hái từ nỗ
lực trấn an phiền não với một tâm trí trống rỗng. Giữ cho tâm được yên nghỉ để
giải tỏa những căng thẳng của tâm lý là điều mà các bác sĩ tâm thần Tây
phương đã từng hướng dẫn, chữa trị cho bệnh nhân của họ. Khi vị thiền sư dạy
dỗ môn đồ của mình phương pháp trấn an phiền não nói trên, ông biết đó chỉ là
phương tiện tạm thời để đối trị cho căn bệnh của những kẻ sơ cơ mà tâm lý
đang còn quá vọng động (chưa bắt kịp giai đoạn ông còn làm chú tiểu ở chùa),
và ông đang tạm thời đóng vai một bác sĩ tâm thần. Phương pháp không phải chỉ
có thế và mục tiêu không phải chỉ có thế. Sự chứng nhập thực tại tuyệt đối
khiến ông đeo đuổi sự tìm tòi một phương pháp hữu hiệu để dẫn đạo môn đồ của
mình ít ra cũng phải có được một kẻ (chưa dám nghĩ tới con số hai) chứng nhập
thực tại ấy như mình chứ không phải chỉ tìm vui và bằng lòng với cái hạnh
phúc tạm thời nhỏ nhoi trong một vài giờ thực tập.
Thực ra, thực tại tuyệt đối chỉ có thể đạt
được bằng trí tuệ không phân biệt (vô phân biệt trí). Trong đó, không có những
ràng buộc hay biến động cần vượt qua, không có cái tâm được kềm chế và yên
nghỉ, không có phiền não để giải trừ, không có thực tại nhiệm mầu nào để đạt
đến, không có trí tuệ để chứng ngộ. Ta và thế giới là một thực thể bất phân
và tất cả đều cùng trong một thể vắng lặng như nhiên, không biên giới, không
ly cách. Chỉ có trí tuệ siêu việt ấy mới đưa đến giải thoát và chỉ có trí tuệ
ấy mới là sự nghiệp duy nhất của kẻ học thiền (duy tuệ thị nghiệp). Không phải
chỉ giữ tâm an nhiên nhẹ nhàng rồi trí tuệ siêu việt và giải thoát tối hậu
cùng phát sinh. Kinh điển nói đức Phật phải tu ba a-tăng-kỳ kiếp mới chứng ngộ
giải thoát được. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói ba a-tăng-kỳ kiếp đó chính là tham, sân,
si chứ chẳng chi khác. Đơn giản quá. Vậy chỉ cần diệt tham, sân, si là thành
Phật tức khắc. Nhưng lời Tổ dù nói lại cho thành đơn giản cũng chẳng khác chi
lời Phật cả, bởi vì kẻ bình phàm đầy mê chấp muốn dẹp cho tiêu sạch tham,
sân, si thì quả là cần ba a-tăng-kỳ kiếp vậy. Đang theo học thiền, các vị tân
thiền sinh thời đại đã vượt qua được một a-tăng-kỳ kiếp nào chưa mà có giải
thoát an lạc và giác ngộ sớm quá vậy? Phải chăng sự giác ngộ và an lạc nhất
thời, nhỏ nhoi mà ta có được nhờ nghe giảng hoặc thực tập trong vài ngày là
tiêu đích mà đức Phật và các vị tổ sư, thiền sư muốn trao đến các thế hệ sau?
Kinh điển dạy ta đừng vội vui mừng ôm chặt các thành tựu nhỏ nhoi đó. Nhìn
xét lại chính mình, nếu thấy còn một tí tham, sân, si vướng lại là biết ta
chưa tiến được đến đâu. Vậy cũng cần vài a-tăng-kỳ kiếp để tu thêm rồi.
Chưa có trí tuệ siêu việt (Bát Nhã trí) thì
chưa có giải thoát thực sự. Mà những kẻ đã chứng ngộ, giải thoát thực sự rồi
cũng sẽ thấy rằng, thật ra không có gì cần phải thoát ra (bổn lai vô nhất vật,
hà xứ nhạ trần ai?—Lục Tổ Huệ Năng) và cũng không có trí tuệ nào để chứng đắc
(vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố—Bát Nhã Tâm Kinh). Có giải thoát để đạt
được thì đó không phải là giải thoát tối hậu; có trí tuệ để thẩm nhập thì đó
không phải là trí tuệ vô biên. Vậy thì thật đáng ngờ cái hạnh phúc và trí tuệ
mà hàng trăm, hàng ngàn người chỉ nhờ nhái lại lời vị thiền sư nói là
đã đạt được! Những cái vô biên vô tận ấy tất cả chúng ta đều có nhưng không
phải mọi người đều nắm được hay xài được qua ngôn ngữ văn tự hay chỉ qua một
giờ đồng hồ giữ cho thân tâm được nghỉ ngơi.
Con người thường có khuynh hướng vươn tới
cái gì siêu tuyệt cho nên dễ bị lôi cuốn và bám víu vào những phương pháp, những
lý lẽ cao siêu mầu nhiệm. Cho rằng lý tánh tuyệt đối không thể đạt đến cũng
sai; cho rằng quá dễ đạt đến cũng sai; mà nói năng luận bàn cũng sai (động
ngữ tắc quai—buông lời ra là đã sai lầm rồi). Vì vậy, ở đây chỉ nhắc nhở
nhau, chia xẻ với nhau điều mà chúng ta cùng hướng tới. Tất nhiên là phải bước
tới, nhanh hay chậm, bằng cách nào, tùy theo căn cơ, trình độ và hoàn cảnh mỗi
người. Nhưng bám víu vào lối đi riêng của mình để công kích, chê bai kẻ khác
là điều buồn cười, nông cạn của những kẻ chưa thấm được một giọt giải thoát
nào của đại dương tư tưởng nhà Phật. Bằng con mắt giác ngộ, vị thiền sư có thể
nhìn thấy khuyết điểm của những phàm tăng, nhưng những kẻ học thiền chúng ta
thì không nên dựa vào đó mà công kích, khinh thị để rồi vương nghiệp dữ, chướng
ngại cho đường học đạo.
Xin chép tặng bạn lời đức Phật trong kinh Tứ
Thập Nhị Chương để kết thúc bài viết này vậy:
“Ta xem sự thiền định như là một cột trụ
trên núi cao và niết-bàn là cơn mộng du giữa ban ngày. Ta xem những lời phán
quyết về đúng và sai như là sự uốn mình nhảy múa của một con rồng và sự lên
xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại.”
Vĩnh
Hảo
Virginia 1990

|