Năm Trung Tâm Hoằng Pháp Đầu Tiên
Của Phật
Giáo Nguyên Thủy Việt Nam
Tỳ kheo
Thiện Minh
Ngày xưa đức Phật thành công rực rỡ
trong việc hoằng pháp lợi sinh, một phần cũng nhờ các vị Vua, bá hộ và những
người mộ đạo kiến tạo những tịnh xá dâng cúng cho ngài và giáo đoàn để có trú
xứ cư ngụ. Tịnh xá vừa là trú xứ chư Tăng cư ngụ vừa là địa điểm để thuyết
giảng Phật pháp cho người tại gia cư sĩ. Do đó, tịnh xá rất quan trọng trong
việc thiết lập giáo đoàn để hoằng pháp. Tương tự, Hòa thượng Hộ Tông sở dĩ
thành công trong việc khai sáng Phật giáo Nguyên thủy tại Việt Nam, phần lớn
cũng nhờ những cư sĩ hộ pháp đắc lực, hỗ trợ ngài xây dựng chùa chiền để có cơ
sở hoằng pháp và là trú xứ cho chư Tăng cư ngụ để tu tập. Có thể nói nhờ năm
trung tâm hoằng pháp đầu tiên này mà Phật giáo Nguyên thủy có cơ sở để phát
triển tại Việt Nam cho đến ngày nay.
Ðó là:
- Chùa Sùng Phước
- Chùa Bửu Quang
- Chùa Giác Quang
- Chùa Kỳ Viên
- Chùa Bửu Long
1. CHÙA SÙNG PHƯỚC
Ngôi chùa này kiến tạo vào năm nào
không biết chính xác nhưng biết chắc là do Việt kiều ở Campuchia hùn nhau xây
dựng để có nơi lễ bái. Chùa tọa lạc tại xóm Trường Ðua, Quận 5, Thành phố
Phnômpênh (Nam Vang), chu vi khoảng một mẫu. Vì Phật giáo ở Campuchia theo
truyền thống Nam tông (Theravada) cho nên đối với Việt kiều chúng ta thì rất
xa lạ, vì họ đã từng quen hình thức thờ cúng và tu tập theo truyền thống Phật
giáo Bắc tông (Mahayana). Cho nên việc kiến lập một ngôi chùa theo truyền
thống Bắc tông để đốt nhang cầu nguyện đối với Việt kiều là để đáp ứng một nhu
cầu cần thiết, mang theo kỷ niệm từ quê nhà. Ðược biết khoảng thập niên ba
mươi thì chùa Sùng Phước do thân sinh của thầy Lê Minh Học trụ trì.
Trong khoảng thời gian sau khi vị trụ
trì viên tịch, phong trào nghiên cứu kinh điển Phật giáo Nguyên thủy của các
Phật tử Việt kiều được phát huy mạnh mẽ. Họ càng nghiên cứu thì họ càng cảm
nhận một điều Phật giáo mà người Campuchia đang tu chính là Phật giáo Nguyên
thủy có nguồn gốc từ Ấn Ðộ, Tích Lan chứ không phải là Phật giáo của riêng dân
tộc người Campuchia. Hiểu được điều đó, thầy Lê Minh Học kết hợp một số bạn
đạo như thầy Sáu Hoa, thầy Ba Lý bàn bạc nhau và thống nhất biến ngôi chùa
Sùng Phước thành ngôi chùa Phật giáo Nguyên thủy cho người Việt. Từ đó về sau,
Phật tử chùa Sùng Phước nghiên cứu kinh điển và tụng niệm theo hình thức Phật
giáo Nguyên thủy.
Kiến trúc ngôi chùa này hoàn toàn
theo kiến trúc Phật giáo Bắc tông Việt Nam, mang nặng hình thức quê hương.
Chắc có lẽ Việt kiều đến đây lễ bái là để nhớ lại quê hương Việt Nam hiện
trong tâm trí của họ. Cách thức thờ phượng thì cũng giống tương tự. Về sau
này, khi chuyển sang truyền thống Nam tông thì lối kiến trúc của ngôi vẫn giữ
nguyên như xưa, duy chỉ có thay đổi đôi chút như việc kết giới Sìmà để phù hợp
với Phật giáo Nam tông, và cách thờ phượng thì giờ đây trong chánh điện chỉ có
độc tôn Phật Thích Ca.
Vị trụ trì tiếp nối thân sinh ông Lê
minh Học là sư Cả Thạnh tục danh Nguyễn văn Thạnh, người gốc Vũng Liêm. Vào
thời sư cả Thạnh, có rất nhiều Việt kiều có ý thức cao về đạo pháp và cho con
xuất gia gieo duyên lành trong chánh pháp, như ông Phán Long có hai người con
gái xuất gia: bà Trần thị Thiệt pháp danh Tín Bạch, bà Trần thị Hay, pháp danh
Tín Thanh. Về thiện nam có ông Thiện Tâm, ông Nguyễn hữu Nghiệp với pháp danh
Tuệ Báu, v.v. Ða số các vị tiền bối thông hiểu đạo Phật Nguyên thủy là nhờ
chùa Sùng Phước, nhưng khi xuất gia các ngài ít cư ngụ ở đây mà thường ở chùa
Mahàmontereym để học đạo pháp với những nhà sư Campuchia. Tiếc thay vào năm
1965, chùa bị giải tỏa làm sân Vận Ðộng Olympic, và chùa dời về Tul Cốt. Ðến
năm 1975, chùa bị bọn Pônpốt phá hủy hoàn toàn, và sư cả Thạnh cũng bị họ
giết. Và ngày nay chùa không còn nữa.
Lúc ngôi chùa này chuyển sang Phật
giáo Nam tông, bác sĩ Lê văn Giảng có công trùng tu lại ngôi chùa và kết giới
Sìma. Trong buổi lễ kết giới có sự chứng minh của đức Vua Sải Chunnat và Hòa
thượng Sasanamunì.
Ban dịch thuật kinh điển và tạp chí
"Ánh sáng Phật pháp" của Phật giáo Nguyên thủy lần đầu tiên được thành lập tổ
chức tại đây do Hòa thượng Hộ Tông, thế danh Lê văn Giảng làm trưởng ban biên
tập. Ban này gồm các thành viên: thầy Sáu Hoa, thầy Ba Lý, ông Phán Nghiêm,
ông Trần văn Long (Phán Long), ông Phán Lai, ông Phán Ngọt, ông Phán Huê, kinh
sư Tô Kim Phước, ông Dương văn Phát, kinh sư Lý văn Ngữ, và ông Trương Phong
Vĩnh. Phật giáo Nguyên thủy ở Việt nam có kinh sách dồi giàu để phổ biến tư
tưởng Phật giáo Nguyên thủy là nhờ có sự hoạt động của ban dịch thuật này.
Tóm lại, nhờ có chùa Sùng phước đầu
tiên nên Phật tử Việt kiều mới có cơ hội hiểu biết Phật giáo Nguyên thủy nhiều
hơn. Nhiều vị hòa thượng có công khai sáng Phật giáo Nguyên thủy tại Việt Nam
cũng nhờ ngôi chùa này mà các ngài mới hiểu đạo và xuất gia. Có thể nói đây là
địa điểm hoằng pháp đầu tiên của Phật giáo Nguyên thủy cho người Việt, và nhờ
đó việc truyền bá chánh pháp về Việt Nam có thêm phần thuận lợi và thành tựu
hơn.
2. CHÙA BỬU QUANG
Chùa được xây dựng vào năm 1938, do
cụ Nguyễn văn Hiểu chủ quản. Lý do là cụ Hiểu hay tin người bạn đạo Lê văn
Giảng xuất gia theo Phật giáo Nguyên thủy. Vì trước đây, hai người bạn này có
giao nguyện với nhau là cụ ở lại quê hương tìm đất xây chùa, còn bác sĩ Giảng
lên Nam Vang khảo cứu kinh điển, xuất gia và truyền đạo Phật về Việt Nam để
phổ biến. Khi biết được tin bác sĩ Giảng đã xuất gia, các ông Nguyễn văn Hiểu,
Nguyễn văn Quyến và Văn Công Hương lập tức vào Chợ Lớn tìm đất xây chùa nhưng
không tìm được chỗ nào thích hợp. Sau đó, ba người lên Gò Dưa, Thủ Ðức, tìm
được một khu đất rất thích hợp để xây chùa, vì địa điểm không xa thành phố mà
cũng không gần thành thị, với phong cảnh rất yên nhàn. Ðược biết đất này của
Bà Cả và của ông Xã Trưởng Bùi Nguơn Hứa, họ đến gặp hai ông bà để thương
lượng giá cả tiến hành việc xây dựng chùa. Nhận thấy ba người này có thiện tâm
lo việc chùa chiền, ông bà rộng lòng cho họ khai phá hơn hai mẫu đất để xây
chùa mà không cần phải trả tiền. Trước nghĩa cử cao đẹp của ông bà chủ đất, cụ
Hiểu và những người bạn đạo rất cảm kích, và chính nghĩa cử này giúp họ gia
tăng đức tin Phật pháp nhiều hơn nữa.
Kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa này
rất đơn giản, không có gì đặc sắc. Ban hộ tự chỉ xây một chánh điện thờ Phật
và tám Liêu Thất theo kiểu nhà sàn của người Campuchia để cho chư Tăng cư ngụ.
Năm 1939, nhận thấy nhu cầu cần thiết để đào tạo các vị Sa di (người mới vào
chùa tu tập) tu học Giới luật, và đọc kinh kệ cho thông thạo - vì những vị này
là mầm non của đạo pháp - ban hộ tự lại tiếp tục xây thêm một phòng học đặc
biệt để huấn luyện Sa di. Ðến năm 1940, cụ Nguyễn Văn Hiểu phát tâm bán căn
nhà riêng của mình, dùng phân nữa số tiền bán nhà để xây lại chùa Bửu Quang
bằng ngói gạch theo lối kiến rất đặc biệt, kết hợp và pha chế theo các loại
kiến trúc Khơme, Tây và Tàu thành ra một loại kiến trúc rất Việt Nam. Ngày nay
chúng ta vẫn còn nhìn thấy loại kiến trúc này ở Thích Ca Phật Ðài (Vũng Tàu).
Ðồng thời, cụ cũng xây một Tăng xá ba lầu cũng bằng ngói gạch cho chư Tăng trú
ngụ. Còn phân nữa số tiền còn lại cu dùng để mua đất làm ruộng, thâu huê lợi
cho chùa. Chùa Bửu Quang ngày nay không phải là kiến trúc thời của cụ Nguyễn
văn Hiểu xây dựng, vì năm 1947 chùa bị giặc Pháp tàn phá. Sau chiến tranh, anh
em cư sĩ ở đó đi xin vật liệu cất lại chùa và nó tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Chùa Bửu Quang là ngôi chùa Phật giáo
Nguyên thủy đầu tiên của người Việt tại Việt Nam. Năm 1939, Hòa thượng Hộ Tông
cùng một số chư Tăng lần đầu tiên về Việt Nam truyền đạo và các ngài trú tại đây để làm căn cứ điểm hoằng dương chánh
pháp. Từ đó đến nay, theo nhịp bước của thời gian, Bửu Quang đã trải qua những
đời trụ trì:
- Hòa thượng Hộ Tông
- Hòa thượng Pháp Tịnh
- Thượng tọa Thiện Quang
- Ðại đức Sán Nhiên
- Ðại đức Thiện Nghiêm.
Ngôi Tam bảo này có lúc mạnh lúc yếu,
tùy thuộc vào vị trụ trì lãnh đạo. Có thể nói thời trụ trì của Hòa thượng Hộ
Tông thì rất thạnh hành nhưng không được tồn tại bao lâu để rồi Hòa thượng lại
đi đến khác tiếp tục con đường hoằng pháp. Ðến thời trụ trì của Thượng tọa
Thiện Quang chẳng những do bàn tay khéo tạo của Thượng tọa làm cho phong cảnh
ở đây càng khởi sắc hơn, mà còn cả tài ngoại khéo léo của Thượng tọa làm cho
người đến chùa Bửu Quang không những Phật tử mà còn cả các đạo giáo khác.
Chùa Bửu Quang là ngôi chùa tiêu biểu
đầu tiên cho nên ngay từ buổi đầu đã có những sinh hoạt khá đặc biệt. Có
trường học để đào tạo cho các vị Sa di. Có những lớp học dành cho chư thiện
nam tín nữ nghiên cứu về pháp học lẫn pháp hành. Ðặc biệt pháp hành ở đây được
xiển dương một cách khá cao độ và người học thiền lúc đó cũng khá nhiều. Lý do
chính là vì những người đến học thiền ở đây là những công chức với đời sống
rất bận rộn và căng thẳng, nhờ có hành thiền mà tâm trí ho được thoải mái và
thanh thản hơn. Thường thường những khóa thiền như vậy do Hòa thượng Hộ Tông
và chư Tăng trong chùa phụ trách. Thỉnh thoảng Hòa thượng Bửu Chơn được thỉnh
từ Nam Vang về dạy phụ đạo, vì lúc này Hòa thượng đang hành thiền ở rừng núi
Campuchia.
Số Phật tử đầu tiên đến quy y và tu
thiền là những gia đình của ông bà Cả Hứa, ông cả Ngưu ở Phú Nhuận, Nguyền Văn
Hiểu, Văn Công Hương, Nguyễn văn Quyến, ông Hương Giáo Thêm(hòa thượng khai
sáng tổ đình Giác Quang), ông Thông Phán, Phạm công Lợi, ông Núi (nay là Thiền
sư Bửu Hạnh), ông Trần văn Cầm, ông Trần Văn Nhân, ông Nguyễn văn Mum (cố Ðại
đức Tuệ Quang), Ðoàn văn Huờn, v.v. Ðời sống vật chất chư Tăng lúc này tương
đối đầy đủ nhờ có cụ Hiểu khéo léo tổ chức mướn người làm ruộng để có lúa gạo
để chư Tăng thọ dụng. Tuy nhiên, hằng ngày Các vị Hòa thượng Hộ Tông, Hòa
thiện Thiện Luật và chư Tăng đều mang bát sống hạnh khất thực.
Khất thực cũng là lối sống khiêm
nhường của chư Tăng, đồng thời là một phương cách gần gũi quần chúng để giúp
họ phát tâm đặt bát cúng dường gieo duyên lành trong chánh pháp. Mỗi lần hòa
thượng và chư Tăng đi khất thực như vậy đã gieo trong tâm trí của người dân
đức tin đối với chư Tăng và nhà chùa rất lớn và cũng có một số người rất thắc
mắc tại sao những người này lại đi xin ăn? Tại sao những người này ăn mặn? Tại
sao những người này không ăn buổi chiều? Từ những hoài nghi thắc mắc như vậy,
họ kéo nhau đến chùa để nhờ các nhà sư giải đáp. Những lần như vậy thì được
Hòa thượng Hộ Tông và Hòa thượng Thiện Luật giải thích cận kẻ cho họ hiểu đúng
chánh pháp của Phật giáo nguyên Thủy. Thế là những người đó hoan hỷ phát tâm
xin quy y Tam bảo, trở thành cận sự Nam và cận sự Nữ của Phật giáo Nguyên
thủy, thậm chí có những người xuất gia trở thành nhà sư. Do đó chùa Bửu Quang
lúc bấy giờ rất nổi tiếng, nhiều Phật tử tới lui đến chùa học đạo và có nhiều
nhà sư cư ngụ đến tại đây. Những vị tiền bối của Phật giáo Nguyên thủy đa phần
điều có sinh hoạt Phật pháp và lưu trú tại đây một thời gian khá dài trước khi
lên đường hoằng pháp.
Ðịa chỉ : Chùa Bửu Quang
75 Ấp Gò Dưa, Phường Bình Chiếu
Quận Thủ Ðức. TP.HCM
3. CHÙA GIÁC QUANG
Chùa Giác Quang được xây dựng năm
1945, do hòa thượng Giác Quang chủ quản. Trước khi xuất gia, hòa thượng là một
người rất có uy tín với xã hội, ngài từng đảm nhận những chức vụ Chánh Lục Bộ,
Hương Hào, Hương Quản và Xã Trưởng. Mặc dù thành danh trên đường đời và có một
mái ấm gia đình vô cùng hạnh phúc, nhưng ngài vẫn quyết định xuất gia kể từ
khi Phật giáo Nguyên thủy du nhập Việt Nam năm 1939, Lúc đó, tiếng chuông
chánh pháp đánh vang dội bốn phương trời phía nam, thấu tai thiện nam Dương
Văn Thêm.
Thế rồi những ngày cuối tuần thiện nam đến chùa
Bửu Quang học đạo do lời giới thiệu một người bạn. Lần đầu tiên trong cuộc đời
của thiện nam mới gặp một người xuất gia theo Phật giáo Nguyên thủy, phong
thái sung sướng và hoan hỷ, tướng mạo trang nghiêm, y phục chỉnh tề, lời nói
hiền dịu. Tuy những vị Sa môn này chưa nói một lời nào về đạo pháp nhưng ông
cảm thấy một bài pháp vô ngôn có giá trị luân lý rất cao. Những vị Sa môn đầu
tiên mà thiện nam Dương Văn Thêm gặp là các vị Hòa thượng Hộ Tông và Hòa
thượng Thiện Luật. Nhờ nhân duyên hạnh ngộ hai vị cao tăng của Phật giáo
Nguyên thủy Việt Nam và đức tu của hai vị này, ông phát tâm tu học đạo pháp.
Ðể phát triển thêm đạo tâm của mình,
sau cuộc hạnh ngộ hai vị Sa môn của Phật giáo Nguyên thủy, thiện nam quyết chí
về Bình Ðông lập thất tu tập. Ở đây thiện nam vừa tu vừa giới thiệu bạn bè
đồng nghiệp và những thân hữu, bạn hữu để biết Phật giáo Nguyên thủy. Trong số
những người đó sau này cũng có vị xuất gia theo Phật giáo Nguyên Thủy như Hòa
thượng Tinh Tuệ, Pháp Tâm, Giác Nhân, v.v. Sau nhiều đêm đắn đo, suy tư, Thiện
nam họp bạn đạo để giao tịnh thất cho cư sĩ Tinh Tuệ trông nom và hướng dẫn
bạn đạo tu hành. Ðể rồi một ngày nọ, năm 1940, thiện nam Dương văn Thêm được
sự cho phép của hiền thê rời bỏ gia đình, quê hương yêu dấu và cuộc đời phú
quý để sang Nam Vang tìm thầy học đạo và xuất gia. Hòa thượng tế độ đặt cho
pháp danh là Giác Quang.
Trải qua 5 năm tầm sư học đạo và xuất
gia ở đất nước chùa tháp, ngài Giác Quang nhìn thấy đất nước Campuchia Phật
giáo Nguyên thủy quá thạnh hành, nhìn về quê hương biết các vị tiền bối đang
chuẩn bị thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. Ngài quyết định xin
phép Thầy tế độ để về Việt Nam kết hợp các vị hòa thượng trong phái đoàn
truyền giáo của Hòa thượng Hộ Tông để đóng góp phát huy Phật giáo Nguyên thủy.
Vì Phật giáo Nguyên thủy mới truyền
về Việt Nam không được bao lâu nên chùa chiền rất hiếm. Muốn đào tạo tăng tài
thì phải có chùa. Ðể góp phần kiến tạo chùa cho Giáo hội, Hòa thượng không màn
cực nhọc cùng các bạn đạo ngày xưa vận động tịnh tài mua đất thêm xung quanh
tịnh thất của Hòa thượng và dần dần xây dựng một ngôi chùa khang trang cho chư
Tăng cư ngụ. Chùa do Hòa thượng có công sáng lập nên tất cả mọi người đề nghị
đặt tên chùa là Giác Quang Tự và nó tồn tại cho đến bây giờ. Năm 1959, Hòa
thượng và các Phật tử trùng tu lại ngôi chùa, xây dựng thêm cốc liêu, tạo thêm
Phật cảnh để cho chư Tăng có đầy đủ chỗ cư ngụ và Phật tử có thêm Phật cảnh lễ
bái cúng dường.
Về kiến trúc, từ năm 1959, chùa Giác
Quang tương đối có một kiểu kiến trúc đặc biệt tiêu biểu cho kiến trúc của
Phật giáo Nam tông thời đó.Vì hòa thượng xuất gia ở Campuchia nên hình thức
ngôi chùa đôi nét cũng bị ảnh hưởng nhưng không mất đi tính dân tộc, chẳng hạn
như mặt tiền chùa xoay về hướng tây nhưng chánh điện xoay hướng về phương
đông, tượng Phật trong chánh điện đúc theo kiểu Campuchia. Chánh điện tuy nhỏ
nhưng trang trí rất trang nghiêm. Chùa nằm trên khu đất khoảng một mẫu, nay
tọa lạc tại số 47 đường Lương Văn Can, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa
chia làm hai khu, khu mặt tiền là Chánh điện, giảng đường, Tăng xá, Nhà trù và
trường học; khu mặt hậu là những liêu thất của chư Ni. Du khách từ cổng chánh
bước vào bên tay phải là một trường Phật học, xây dựng ngay từ khi thành lập
chùa với ý định dạy chữ Pàli và giáo lý cho chư Tăng và Phật tử, bề ngang
khoảng 3m chiều dài khoảng 10m, phía trên trường có ghi ba dòng chữ bằng ba
ngữ văn: Pàli-Miên, chữ Hán và chữ việt, nội dung đề là Trường Phật Học.
Ði vào 10 m nữa, bên tay trái là
chánh điện. Chánh điện theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy là nơi chư Tăng
công phu sáng và tối, cử hành các nghi lễ lớn và nhỏ như lễ xuất gia, trai
tăng, thuyết pháp, lễ Phát Lồ v.v. Bên trong chánh điện thờ duy nhất một tượng
Phật tổ, trang trí theo dạng tam cấp, tầng cao nhất là tôn trí Xá lợi Phật tổ,
tầng thứ nhì tôn trí tượng Phật tổ, tầng thứ ba là đặt bát nhang để dâng hương
cúng Phật hằng ngày. Trước tam cấp này là một bộ ghế sơn son, thếp vàng do
quân đội Hoàng gia Thái Lan hiến cúng, sử dụng cho việc tôn trí những tượng
Phật Thích Ca loại nhỏ bằng đồng, tư thế đứng, nằm, ngồi. Hai bên tam cấp là
hai tủ kinh Tam Tạng, một tủ chứa đựng Tam Tạng bằng tiếng Anh, còn tủ khác
đựng Tam Tạng bằng Pàli-Miên.
Sau chánh điện có một cửa hậu, cửa
này thường chư Tăng vào hành lễ khi có những cuộc lễ lớn. Bức tường hậu chánh
điện đồng thời là mặt tiền chùa Giác Quang có vẽ tượng Phật Thích Ca nhập
Níp-bàn rất đẹp, khi chúng ta đi ngoài đưỡng Lương Văn Can là nhìn thấy tượng
Phật, vì thế nên người ở đây thường gọi chùa này là chùa Phật Nằm. Hai bức
tường hai bên của chánh điện treo nhiều bức ảnh về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca.
Trước sân chánh điện có tạo ba Phật cảnh để cho Phật tử lễ bái, một tượng Bồ
tát khổ hạnh, tượng thứ hai Phật nhập Níp bàn, tượng thứ ba đức Phật an cư
trong rừng một mình, xung quanh có chú khỉ và bạch tượng. Sau ba Phật cảnh này
là Bảo tháp tôn trí Xá lợi tầng trên và tầng dưới thờ cốt của chư Tăng và Phật
tử. Giữa khu đất là nhà giảng dành cho chư Tăng Ni và Phật tử dùng cơm hằng
ngay đồng thời là nơi tiếp khách. Bên phía phải của nhà giảng có những liêu
thất của chư Tăng cư ngụ. Khu vực cuối cùng của khu đất chùa Giác Quang thì có
nhiều liêu thất của quý bà tu Nữ, quý bà tu học biệt lập ở khu đất này, hằng
ngày chỉ vào giờ công phu chiều quý bà mới lên chánh lễ bái điện, hoặc những
ngày lễ Trai tăng lớn.
Tóm lại chánh điện, giảng đường, bảo
tháp đều có đường nét, nghệ thuật kiến trúc độc đáo của nó, nhẹ nhàng uyển
chuyển, đơn giản, mộc mạc nhưng đa dụng và không kém phần quan trọng về mặt
tâm linh. Thậm chí ngay cả chiếc lá Bồ đề đúc bằng xi măng đặt giữa giảng
đường trên máy ngói cũng đã thể hiện phong cách rất sống động của giảng đường
chùa Giác Quang.
Từ ngày thành lập đến nay chùa Giác Quang trải
qua các đời trụ trì:
- Hòa thượng Giác Quang
- Hòa thượng Tinh Tuệ
- Thượng tọa Giác Nhân
- Thượng tọa Giác Nhẫn
- Thượng tọa Bửu Trí
- Ðại đức Thiện Ðạt
Trong giai đoạn đầu, thời trụ trì của
Hòa thượng Giác Quang, chùa rất thạnh hành. Lúc bấy giờ ngài thường xuyên liên
lạc với Tăng đoàn Campuchia, giữ mối quan hệ Việt Miên chặt chẽ để mỗi khi có
những cuộc lễ lớn như Tăng sự xuất gia, kết giới Sima thì ngài phải mời Tăng
già Campuchia tham dự để cố vấn thêm, vì ngài mới xuất gia. Ðôi khi có những
giới tử phát tâm xuất gia, ngài phải thỉnh sư từ Nam Vang về làm thầy tế độ.
Theo luật Phật giáo Nam Tông, thầy tế độ cho giới tử xuất gia Tỳ kheo phải đủ
20 tuổi đạo và thông thạo kinh luật. Vì thế nên lúc đầu chư Tăng chùa Giác
Quang rất vắng nhưng nhờ có chư Tăng Campuchia trú trụ nên đông đảo thiện nam
tín nữ rất hoan hỷ.
Bên cạnh đó, ngài thường xuyên thuyết
pháp giảng đạo vào những ngày lễ cho chư thiện nam tín nữ thông hiểu thêm về
Phật pháp. Nhờ nghe pháp, Phật tử xin quy y rất đông và trở thành thiện tín
chùa Giác quang. Trong số các thiện tín này có những người về sau xuất gia
thành nhà sư như Hòa thượng Tinh Tuệ, ngài Cả Giác Nhân, Thượng tọa Pháp Tâm.
Mặc dù bận rộn Phật sự của chùa như vậy nhưng ngài vẫn tích cựa đóng góp cùng
với quý ngài trong phái đoàn truyền giáo của Hòa thượng Hộ Tông vận động và đệ
đơn xin thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. Khi được chấp thuận
thành lập, với Ban Trưởng Quản GHTGNTVN, ngài được tập thể Tăng đoàn suy tôn
vào chức vụ cố vấn GHTGNTVN.
Ðến thời trụ trì của Hòa thượng Tinh
Tuệ và Thượng tọa Giác Nhân, chư Tăng rất đông đảo, khoảng 15 -20 vị trú ngụ
tu học. Có thể nói có rất nhiều vị tăng tài của Giáo hội đã xuất thân từ chùa
Giác Quang như Thượng Tọa Giác Minh, thượng tọa Tịnh Giác, v.v. Chùa Giác
Quang đặc biệt có Ðại đức Giác Chơn, mặc dù không phải là trụ trì nhưng Ðại
đức đóng góp rất nhiều công đức cho ngôi chùa này trong ba đời trụ trì. Ðúng
ra sau khi Ngài Giác Nhân viên tịch, Ðại đức là người tiếp nối chức trụ trì
nhưng có lẽ Ðại đức khiêm tốn nhường cho vị khác, và chỉ nhận giữ chức phó trụ
trì. Ðại đức là người có công mua thêm phần đất bên phía trái của chùa, bề
ngang khoảng 3 m, chiều dài khoảng 80 m, bây giờ nơi này làm tăng xá cho chư
Tăng trú ngụ.
Ðời trụ trì của ngài Giác Nhẫn và
ngài Bửu Trí không có gì nổi bật lắm vì tuổi tác quý ngài quá cao, chỉ làm
bóng mát cho chư Tăng và Phật tử noi theo tu niệm, chứ không có phát huy thêm
việc gì mới lạ, ngoại trừ duy trì những gì chùa hiện có.Tuy nhiên đến đời trụ
trì của đại đức Thiện Ðạt có những bước đổi mới, mặc dù Ðại đức tuổi còn trẻ
nhưng lãnh đạo ngôi chùa có nhiều điều tiến triển tốt đẹp. Chẳng hạn như các
công tác đào tạo thêm giới tử cho xuất gia, cho chư Tăng trẻ học văn hóa, mởi
khóa học Vi Diệu Pháp, giáo lý, kinh tụng cho chư Tăng và Phật tử, phát huy và
gìn giữ những ngày sám hội lệ. Những kỳ sám hối đều có thỉnh nhiều vị pháp sư
giảng đạo cho Phật tử, tổ chức những ngày đại lễ như Rằm tháng Giêng, rằm
tháng Tư , tổ chức đầu đà sáng đêm để thiện nam tín nữ có cơ hội học pháp, và
Rằm tháng Chín tổ chức dâng y Ka-thi-na đến chư Tăng và Phật tử tham dự rất
đông. Ðặc biệt những khi đồng bào bị thiên tai bão lụt, Ðại đức thường tích
cực tổ chức cứu trợ đến đồng bào.
Tóm lại, sau ngôi tổ đình Bửu Quang,
chùa Giác Quang là ngôi chùa thứ hai của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt
Nam. Từ ngày thành lập đến nay, chùa là một địa điểm hoằng pháp rất mạnh mẽ và
thu hút nhiều tín đồ cho Phật giáo Nam tông, và là nơi đào tạo chư Tăng có cả
tài lẫn đức.
Ðịa chỉ: Chùa Giác Quang
47 Lương Văn Can
Phường 15, Quận 8. TPHCM
4. CHÙA KỲ VIÊN
Chùa Kỳ Viên thành lập vào năm nào
không có tài liệu để chứng minh cụ thể, nhưng theo bảng chùa Kỳ Viên hiện nay
vẫn còn treo ở trước chánh điện thì trong bản chùa đó có ghi hai dòng chữ Tàu
có thể giúp chúng ta xác định được niên đại của chùa. Dòng thứ nhất phía bên
phải có ghi: “THIÊN VẬN NHÂM TUẤT NIÊN LỤC NGUYỆT THẬP CỬU NHẬT KÍNH TẠO”.
Dòng thứ hai phía bên trái có ghi: “THÍ CHỦ LÊ VĂN THỤ THẤT CHUNG NGUYỄN THỊ
TRUNG ÐỒNG PHỤNG CÚNG”.
Qua hai dòng chữ trên, chúng ta có
hai giả thuyết:
1) thứ nhất, nếu ngày tháng năm ghi
trên bảng của ông bà họ Lê và họ Nguyễn hiến cúng bảng chùa dựa theo ngày,
tháng, năm lập bảng thì có lẽ chùa được thành lập trước năm 1922, lý do là xây
dựng chùa trước rồi thí chủ cúng dường bảng chùa sau;
2) thứ hai, nếu bảng chùa đó căn cứ
vào ngày thành lập chùa thì chắc chắn chùa Kỳ Viên được thành lập vào ngày 19
tháng 6 năm 1922.
Theo lịch sử chùa Kỳ Viên được viết
trong văn bản ngày 09-01-1957, vào năm 1947 chùa này do bà Bùi Thị Ngọc
(thường gọi là bà Năm Chùa hay bà Năm Ngọc) trụ trì, bà tu theo truyền thống
Phật giáo Bắc tông. Những người hộ pháp ở đây có lòng tin với Phật giáo Nguyên
thủy đầu tiên là ông Huờn, ông Ðội Hậu, ông Chín Cửu, cô Năm Mập và bà Chín
Cửu. Thỉnh thoảng ở đây có một nhà sư khất sĩ được mời đến giảng đạo, đó là sư
Năm, sau này là tổ Minh Ðăng Quang của Phật giáo Khất Sĩ.
Năm 1948, do tình hình chiến tranh,
Chùa Bửu Quang bị tàn phá. Cụ Nguyễn văn Hiểu cùng với nhóm cư sĩ chùa Bửu
Quang đến mượn chùa Kỳ Viên của bà Năm Ngọc để làm địa điểm luận đạo, thuyết
pháp. Không lâu sau, chùa Kỳ Viên bị giải tỏa phóng đường cho xe cứu hỏa lưu
thông. Thừa lúc đó, nhóm cư sĩ Nguyễn văn Hiểu thấy đối diện có đất trống của
gia đình Hui Bổn Hỏa (Chú Hỏa) nằm góc đường Phan đình Phùng và Bàn Cờ nên họ
đến mướn đất để xây chùa với ý định sau này sẽ làm trụ sở Phật giáo Nguyên
thủy tại Sài Gòn.
Ngày 21 tháng 7 năm 1949, Ðô thành
Sài Gòn cấp giấp phép cho xây lại chùa Kỳ Viên mới. Từ ngày khởi công cho đến
hoàn thành chỉ mất có ba tháng, và lễ nhập tự và lễ An vị Phật được cử hành
vào ngày 9 tháng 10 năm 1949 .
Từ ngày xây cất xong, chùa Kỳ Viên sinh hoạt
thuần túy theo Phật giáo Nguyên thủy nhưng chùa còn ở trong tình trạng đất
mướn. Bổng nhiên có hai vị chư hộ pháp xuất hiện phát tâm trong sạch xuất tiền
mua toàn bộ khu đất chùa Kỳ Viên mà nhóm cụ Hiểu đang mướn đất, để dâng cúng
Tam bảo. Hai người đó là ông Kim Long và bà Lâm thị Thiệt. Vào ngày 16/ 2/
1952 (nhằm ngày 21 tháng Giêng, Nhâm Thìn), ông bà và chư thiện tín cư sĩ long
trọng cử lễ dâng đất và chùa đến chư Tăng Phật giáo Nguyên thủy. Ðại diện chư
Tăng nhận đất và chùa là Hòa thượng Hộ Tông dưới sự chứng minh của ngài Sư Cả
trụ trì chùa Mahàmontrey ở Campuchia.
Năm 1953, một trận hỏa hoạn thiêu hủy
gần hết xóm Bàn Cờ và chùa Kỳ Viên bị lửa táp cháy xén một gốc nhà bếp. Qua
cuộc hỏa hoạn đường xá trong Xóm Bàn Cờ được mở rộng và chánh quyền thời bấy
giờ nối dài con đường Richaud (Phan đình Phùng), chính vì thế mặt tiền chùa Kỳ
Viên bị khuất sau những dãy phố cất trên khoảng đất trống trước cửa chùa. Do
đó, nhóm cư sĩ hộ pháp Nguyễn Văn Hiểu bàn tính lên kế hoạch kêu gọi bá tánh
hùn phước cùng nhau trùng tu lại chùa Kỳ Viên để xoay mặt tiền chùa ra đường
mới, nay là đường Nguyễn đình Chiểu. Thời gian trùng tu lần này bắt đầu từ 12
tháng 2 năm 1954 kéo dài đến tháng 11 năm 1954 mới hoàn thành, và từ đó Chùa
giữ nguyên dạng cho đến ngày nay. Tổng chi phí xây dựng trên tám trăm ngàn
đồng, một số tiền rất lớn vào thời đó. Lúc đó ở Sài gòn, chùa Kỳ Viên được xem
là một trong những ngôi chùa đẹp nhất.
Về mặt kiến trúc, chùa KỳViên từ lúc
thành lập cho đến năm1947 hoàn toàn theo lối kiến trúc và cách thờ phượng của
Phật giáo Bắc Tông. Từ khi chuyển sang Phật giáo Nguyên thủy, kiến trúc và
cách thờ phượng chuyển sang truyền thống Phật giáo Nam tông. Nhưng lúc này
kiến trúc cũng không có gì nổi bật lắm chỉ xây thêm một chánh điện thờ Phật,
trên nóc giữa chánh điện xây một ngọn tháp hình tứ giác và trên phía tháp mặt
tiền có đề hàng chữ Kỳ Viên Tịnh Xá.
Khi chùa Kỳ Viên được trùng tu lại
vào năm 1954 thì lúc này mới có nét kiến trúc của Phật giáo Nguyên thủy. Nóc
chánh điện xây theo kiểu hai máy. Ðứng trước mặt tiền nhìn vào, phía trên cao
nhất xây theo kiểu tam giác, trong đó có hàng chữ KỲ VIÊN TỰ, điều này cho
thấy người chủ trương thể hiện dân tộc tính. Tam giác thứ hai, viết chữ chùa
Kỳ Viên bằng tiếng Pàli mẫu tự Latinh: JETAVANA- VIHÀRA. Dưới tam giác thứ hai
là một hình bầu dục nhìn vào trông có vẻ uy nghiêm và trầm hùng.Mặt tiền chánh
điện có cả thảy là ba ngưỡng cửa để đi vào chánh điện, một của chính và hai
cửa phụ hai bên, phía trên ba ngưỡng cửa này đều có xây hình bầu dục,song sắt
của hình bầu dục là những chiếc là Bồ đề trông thật đẹp và dễ thương.
Chánh điện thờ Phật theo dạng tam
cấp, từng cao nhất là thờ Xá Lợi Phật, từng thứ hai là an vị tượng Phật tổ
Thích Ca, tầng thứ ba thờ Phật chuyển pháp luân và phía dưới có một bộ ghế sơn
son thép vàng để thờ những tượng Phật Thích Ca loại nhỏ, và có chưng bông hoa.
Bộ ghế này do quân đội hoàng gia Thái Lan hiến tặng. Bức tường phía sau nơi
thờ xá lợi và Phật có vẽ nhiều ngọn tháp nhìn vào thật đẹp trông giống như
bồng lai tiên cảnh. Không gian chánh điện rất rộng và cao nên mỗi lần tụng
kinh âm vang nhè nhẹ, vang dội bốn phương khiến cho người tụng kinh và người ở
ngoài chánh điện nghe lời kinh tiếng kệ rất hay, âm diệu nhẹ nhàn uyển chuyển.
Phía sau chánh điện là một trai
đường, gác trên trai đường là tăng xá dành cho chư Tăng nghỉ, phía trước dãy
phòng tăng xá là một hội trường nho nhỏ dành để chư Tăng hội họp bàn luận về
Phật pháp, trên hội trường này có một tủ thờ rất nhiều tượng Phật trên thế
giới do Hòa thượng Bửu Chơn hiến tặng sau mỗi lần dự hội nghị Phật giáo. Cổng
tam quan chùa Kỳ Viên ngày nay xây theo lối kiến trúc Thích Ca Phật đài ở Vùng
Tàu không giống như cổng tam quan ngày xưa.
Chùa Kỳ Viên thời đức Phật do ông Cấp
Cô Ðộc dâng cúng rất đặc biệt. Ðức Phật cư ngụ ở đây rất lâu và nhiều bài pháp
ngày nay còn ghi trong kinh điển cũng được Ngài thuyết giảng tại đây. Chùa Kỳ
Viên ở Việt Nam cũng thật xứng đáng với tên gọi Kỳ Viên ở Ấn Ðộ. Vì ở đây có
nhiều sự kiện quan trọng và là điểm son của Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam.
Nhắc đến Kỳ Viên ở giai đoạn đầu,
chúng ta không thể nào quên một vị pháp sư tài ba lỗi lạc, đó là Pháp sư Thông
Kham. Ngài thông thạo Tam Tạng, thuyết pháp giảng đạo thật lưu loát. Nhờ có
ngài nên Phật tử mới am tường chánh pháp Phật giáo Nguyên thủy và cứ thế quần
chúng Phật tử đến quy y tại chùa Kỳ Viên càng ngày càng đông. Ngày nay chúng
ta vẫn còn thấy những quyển sách của pháp sư như Ba Mươi Tám Pháp An Lành,
Phật Tổ Cồ Ðàm, Giải Ðáp Thắc Mắc Người Cư Sĩ, Tìm Hiểu Phật giáo v.v. Người
thứ hai là Pháp sư Hòa thượng Narada người Tích Lan. Ngài đến đây dâng Xá Lợi
cho chùa Kỳ Viên và ngài từng thuyết pháp giảng đạo bằng Anh ngữ qua sự thông
ngôn của đạo hữu Phạm Kim Khánh cho Phật tử Việt Nam. Những bài pháp của ngài
là những viên ngọc quý cho thiện nam tín nữ noi theo tu hành. Ngài có rất
nhiều quyển sách được dịch sang Việt ngữ để phổ biến cho người Việt Nam nương
theo đó tu hành. Kể từ ngày có hai vị pháp sư trên, chùa Kỳ Viên là một vị sao
Bắc Ðẩu trên bầu trời Sài Gòn. Nhắc đến Kỳ Viên ai cũng biết và dần dần trở
nên nổi tiếng ở trong nước cũng như trên thế giới.
Tại địa điểm quan trọng này, vào ngày
14-05-1957 được sự cho phép của chánh phủ, cụ Nguyễn Văn Hiểu thành lập TỔNG HỘI
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM. Ðồng
thời vào ngày 18-12-1957, quý vị Hòa thượng Bửu Chơn, Thiện Luật, Hộ Tông, Kim
Quang, Giới Nghiêm, Tối Thắng và Giác Quang thành lập GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NGUYÊN
THỦY VIỆT NAM. Kể từ đó cho đến năm 1981, chùa Kỳ Viên là trụ sở của Giáo hội
Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. Các vị Hòa thượng Tăng thống của Giáo hội Tăng
già Nguyên thủy Việt Nam đều là những vị trụ trì chùa Kỳ Viên, đến nay đã trải qua những đời trụ
trì:
- Hòa thượng Hộ Tông
- Hòa thượng Bửu Chơn
- Hòa thượng Tối Thắng
- Hòa thượng Giới Nghiêm
- Hòa thượng Thiện Thắng
- Hòa thượng Ẩn Lâm
- Thượng tọa Viên Minh
- Hòa thượng Siêu Việt
- Thượng tọa Tăng Ðịnh
Tuy nhiên, đời trụ trì Thượng tọa
Viên Minh và Thượng tọa Tăng Ðịnh là thời điểm Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra
đời, cho nên hai vị không còn đảm nhận chức vụ Tăng thống nữa. Về mặt hành
chánh, kể từ ngày Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập, chùa Kỳ Viên mặc
nhiên không còn là trụ sở của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam nữa.
Những vị trụ trì trên đã đóng góp rất tích cực và phát huy Chùa Kỳ Viên nổi
bật theo từng giai đoạn khác về mọi mặt như xã hội, văn hóa, hoằng pháp v.v.
Chùa Kỳ Viên hiện nay tọa lạc tại số
610, đường Nguyễn Ðình Chiểu, phường 3, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Thượng
tọa Tăng Ðịnh được Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh bổ nhiệm giữ chức
trụ trì từ năm 1992 cho đến nay. Ðây là một trong những điểm hoằng pháp chính
của Thành phố Hồ Chí Minh: Chùa Xá Lợi, Chùa Aán Quang, Chùa Kỳ Viên, Chùa
Vĩnh Nghiêm và Tịnh xá Trung Tâm.
Mỗi Chủ Nhật đều có tổ chức thuyết
giảng Phật pháp cho chư Phật tử, số Phật tử đến tham dự khoảng 500 người.
Trong hai ngày sám hối có tổ chức hành thiền và thuyết pháp, số lượng khoảng
800 người đến tham dự. Ðặc biệt mỗi tháng có hai ngày mùng một và mười lăm, có
mở khóa tu thiền Tứ niệm xứ dành cho các hành giả muốn tu tập pháp hành thiền,
suốt ngày từ 8 giờ sáng cho đến 17 giờ chiều, do quý thiền sư Tăng Ðịnh và Hộ
Tịnh đảm nhiệm. Mỗi ngày trong tuần đều có tổ chức những lớp giáo lý dành cho
Phật tử. Môn học gồm có Vi Diệu Pháp, Thanh Tịnh đạo, Phật pháp chuyên đề,
Trung bộ kinh, Pháp cú kinh, kinh tụng Pàli. Thành phần giảng sư gồm những vị
có trình độ Phật học uyên thâm.
Ðặc biệt gần đây, Thượng tọa Tăng
Ðịnh có tổ chức tái bản tất cả kinh sách của chư vị tiền bối của Phật giáo
Nguyên thủy và cho ấn hành những bản dịch của Hòa thượng Pháp Minh và Tỳ kheo
Thiện Minh để đáp ứng nhu cầu học Phật của chư Phật tử.
Tóm lại, chùa Kỳ Viên trong quá khứ
là trụ sở của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam, cơ sở hoằng pháp chính
của Phật giáo Nguyên thủy và là nơi tiếp đón các phái đoàn Phật giáo quốc tế.
Còn chùa Kỳ Viên ngày nay là trung tâm văn hóa của Phật giáo Nam tông, một địa
điểm vừa diễn dương pháp học lẫn pháp hành.
Chùa Kỳ Viên ở trong quá khứ lẫn
trong hiện tại là một điểm son xiển dương Phật pháp vô cùng quan trọng và lợi
lạc cho tứ chúng. Tuy nhiên, về hạ tầng cơ sở đã bị lạc hậu với thời đại và
mỗi ngày số lượng tín đồ càng đông sợ e sức chứa bị quá tải. Hy vọng trong
tương lai chùa Kỳ Viên sẽ được trùng tu và thiết kế lại cho có tầm cỡ để xứng
đáng với tên gọi và vị trí của nó trong lịch sử.
Ðịa chỉ: Chùa Kỳ Viên
610 Nguyễn Ðình Chiểu
Phường 3, Quận 3. TP HCM
5. CHÙA BỬU LONG
Kể từ khi phái đoàn truyền giáo của
Hòa thượng Hộ Tông đem Phật giáo Nguyên thủy du nhập Việt Nam năm 1939, một
tiếng chuông được gióng lên để thức tỉnh nhiều người còn say mê trong bóng tối
cuộc đời, chưa tìm được lối đi đích thực cho chính mình. Thấy đạo mới lạ và
đạo hạnh của những nhà sư truyền giáo đầu tiên của Phật giáo Nguyên thủy khác
thường hơn những tôn giáo mà họ hay biết trước đây ở Việt Nam, nhiều người tò
mò đến tìm hiểu và học đạo, và cứ thế càng học họ càng nhận ra một điều là
những gì họ biết trước đây giống như chân núi Tu Di còn Giáo pháp họ đang tiếp
xúc tu học giống như đỉnh Tu di. Vì họ nhận thấy từ cách sống, nghi lễ, kinh
kệ, y phục, v.v. đều có phần đơn giản nhưng rất ý nghĩa, hình như sinh hoạt
của những vị này là đang kế thừa truyền thống Tăng già thời đức Phật. Do đó họ
khuyến khích thân bằng quyến thuộc và những người bạn hữu của họ đến quy y Tam
bảo rất đông.
Từ đó về sau, tiếng lành đồn xa, tận
Biên hòa, có thiện nam tử Võ Hà Thuật tìm đến trung tâm hoằng pháp đầu tiên
của Phật giáo Nguyên thủy tại Gò Dưa, Thủ Ðức để quy y Tam bảo với Hòa thượng
Hộ Tông. Mặc dù thiện nam có một đời sống giàu có sang trọng và có địa vị
trong xã hội (Hội đồng Ðịa hạt tỉnh Biên Hòa) nhưng thường chứng kiến những
cảnh dâu bể của cuộc sống và ngán ngẫm thế sự thăng trầm. Vì vậy vào năm 1942,
nhân duyên hội đủ, ông quyết định bỏ tất cả để tìm một hướng đi đích thực cho
cuộc đời còn lại của mình. Thế là, ông chọn mua một phần còn lại của ngọn đồi
tại ấp Thái bình, Long bình, Thủ Ðức để lập tịnh thất tu niệm và thỉnh thoảng,
ông thỉnh Hòa thượng bổn sư của mình qua tịnh thất để trình pháp và cúng
dường. Năm 1958, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam chính thức được nhà
nước công nhận, Hòa thượng Hộ Tông được suy tôn giữ chức Tăng thống đầu tiên.
Hòa chung niềm hoan hỷ khi Giáo hội có pháp nhân, pháp quyền, cư sĩ Võ Hà
Thuật hoan hỷ dâng đất và tịnh thất của mình cho Giáo hội để xây dựng trung
tâm Thiền. Năm 1959, tịnh thất và đất của ông được đức Tăng thống khởi công
xây dựng chùa Bửu Long và thường xuyên ngài cư ngụ tại đây hành thiền và hướng
dẫn những hành giả tu tập Tứ niệm xứ, còn tại trụ sở chùa Kỳ Viên, Hòa thượng
chỉ đến đó làm việc cho giáo hội chứ không ở cố định vì ngài thích sống cảnh u
tịch để hành thiền.
Về kiến trúc, như đã đề cập ở trên,
lúc đầu thiện nam Võ Hà Thuật chỉ xây dựng một thiền thất nhỏ để hành đạo trên
một ngọn đồi ở Long Bình, Thủ Ðức, chu vi khoảng hơn mười bốn mẫu tây. Về sau,
ông hiến cúng thiền thất và toàn bộ khu đất cho Giáo hội Tăng già Nguyên thủy
Việt Nam để thành lập chùa và đào tạo Chư Tăng. Lúc đó, Hòa thượng Hộ Tông
đương kim là Tăng thống của Giáo hội và là thầy tổ của ông nên Hòa thượng đại
diện Tăng già tiếp nhận. Hòa thượng Hộ Tông nhận thấy vùng đất yên tịnh,
thoáng mát, rộng rãi và phong cảnh u tịch xứng đáng để mở thiền viện, cho nên
vào năm 1963, ngài kết hợp với kiến trúc sư phát họa một bản vẽ sơ đồ thiền
viện Bửu Long rất quy mô và vĩ đại. Kiểu mẫu chánh điện rất độc đáo phối hợp
nhịp nhàng giữa kiến trúc Việt Nam vớiø kiến trúc Ấn Ðộ, Thái Lan, Miến Ðiện,
phía trên chánh điện dự định xây một ngọn tháp để tôn trí Xá Lợi chiều cao
khoảng 30 m.
Tuy nhiên công trình này không thực
hiện được vì một số lý do khách quan. Có lẽ vì cách thiền viện Bửu Long không
xa có một doanh trại quân đội của thời đó, nếu thiền viện được xây dựng với
chiều cao như vậy, chắc chắn nhà chức trách địa phương sẽ không đồng ý và như
thế, công trình xây dựng của Hòa thượng sẽ không được nhà nước cấp giấy phép.
Do đó, Hòa thượng đành phải xây một chánh điện nhỏ chiều ngang khoảng 12m,
chiều dài khoảng 28m để tôn thờ tượng đức Bổn Sư trang nghiêm cho Chư Tăng Ni
và Phật tử lễ bái cúng dường hằng ngày, và kiến trúc không có gì nổi bật cho
lắm. Ðồng thời với công trình xây dựng đó, có rất nhiều liêu thất được xây cất
nằm rải rác khắp ngọn đồi dành cho chư Tăng Ni và Phật tử tu thiền. Phong cảnh
và trú xứ ở đây rất thích hợp cho những thiền giả tu tập thiền định.
Về sau, do nhu cầu phát triển của chư
Ni, Thượng tọa Viên Minh thực hiện một chương trình đào tạo những vị ni trẻ
tuổi có năng lực cầu học và cầu tu để giúp sức cho chư Tăng về phương diện văn
hóa và xã hội. Trên cơ sở đó, năm 1990, Thượng tọa xây dựng một Ni viện trong
khuôn viên thiền viện Bửu Long cho các vị ni trẻ tuổi xuất gia để có trú xứ tu
học. Lối kiến trúc xây dựng theo hình chữ U, có nhiều phòng, một nhà trù, một
phòng học. Năm 1995 Thượng Tọa Viên Minh, chư Tăng Ni và Phật tử Phật giáo Nam
tông cử hành lễ động thổ xây dựng chánh điện mới, vị trí nằm giữa khuôn viên
thiền viện, nhưng vì kinh tế còn eo hẹp nên chưa thực hiện.
Năm 1996, Thượng tọa Hộ Pháp (du học
ở Thái Lan và Miến Ðiện hơn 25 năm) có hoài bão mở lớp chuyên khoa Phật học về
Kinh điển Nguyên thủy cho Chư Tăng Phật giáo Nam tông. Thượng tọa Hộ Pháp và
Viên Minh vận động Phật tử Thái Lan, Miến Ðiện và Việt Nam xây dựng một lớp
học chiều ngang khoảng 4 m, chiều dài khoảng 30 m, 1 lầu. Tầng trệt là phòng
học của chư Tăng, có 2 phòng song song dành cho giảng sư nghỉ giải lao. Tầng
trên là tăng phòng dành cho các vị học tăng cư trú. Kiến trúc rất tao nhã, nhẹ
nhàng và thanh thoát, có phần pha tạp kiểu mẫu của Miến Ðiện và Thái Lan, tuy
nhiên cũng không mất hẳn đường nét, kiểu mẫu Việt Nam.
Như phần trên đã nói do nhu cầu kinh
tế không thể tiếp tục xây dựng chánh điện mới, cho nên vào năm 2000, Thượng
tọa Viên Minh trùng tu chánh điện cũ, kinh phí khoảng 600.000 đồng. Công trình
giữ nguyên hiện trạng cũ, chỉ nới rộng thêm phía sau tượng đức Bổn sư để tăng
thêm chu vi của chánh điện. Bên trong chánh điện, thờ phượng rất đơn giản
nhưng tôn nghiêm, một tượng đức Phật tổ ngồi trên tọa sen với gương mặt hiền
từ và nhân ái, phía sau tượng là bức tường vẽ những vầng sáng tượng trưng cho
những ánh hào quang của ngài. Hai bên tượng Phật là hai tủ kinh Tam Tạng bằng
chữ Pàli mẫu tự Thái Lan, một pháp tọa dành cho pháp sư ngồi giảng giáo lý vào
những dịp lễ, hai bên vách tường của chánh điện treo những bức tranh về lịch
sử cuộc đời của đấng Giác Ngộ. Chúng ta mới bước vào chánh điện cảm thấy một
không gian thênh thang, trầm hùng và uy nghiêm, tưởng chừng như đức Phật đang
ngự trong một cung điện uy nga tráng lệ. Lối kiến trúc chánh điện ở đây mang
đầy màu sắc Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam. Bên ngoài chánh điện còn có thêm
hai cửa hông, qua hai cửa này chư Tăng và Phật tử thường vào hành lễ, với kiểu
mẫu kiến trúc nhìn xa hơi giống loại kiến trúc cổ kính của cung đình. Tuy
nhiên cũng có đường nét nghệ thuật, hoa văn, kiến trúc độc lập của Phật giáo
Nguyên thủy.
Từ ngày thành lập cho đến nay, chùa
luôn luôn là bóng mát cho Tăng Ni cư ngụ để yên tâm tu hành, là nơi trang
nghiêm thanh tịnh cho người tại gia có nơi tôn nghiêm lễ bái cúng dường Tam
Bảo. Trụ trì hay còn gọi là viện chủ là những vị lãnh đạo tối cao trong một
ngôi chùa. Các ngài là tấm gương sáng cho Tăng chúng nương theo tu hành. Thông
thường vị trụ trì có cả tài lẫn đức thì ngôi chùa đó chắc chắc sung túc và đầy
đủ phước báu. Theo năm tháng trôi qua, chùa Bửu Long đã trãi qua những đời trụ
trì:
- Thượng tọa Lão Tâm
- Hòa thượng Hộ Tông
- Ðại đức Bửu Ðức
- Thượng Tọa Viên Minh
Trong đời trụ trì của Hòa thượng Hộ
Tông, mặc dù bị chiến tranh và pháp nạn nhưng ngài vẫn cố gắng phát triển ngôi
chùa với khả năng của mình. Ðào tạo tăng tài để phục vụ Giáo hội, nhiều nữ tu
sau khi ý thức được con đường tu hành do Hòa thượng giảng dạy, phát tâm bỏ tất
cả, theo ngài xuất gia hành đạo. Ở đây ngài hướng dẫn chư Tăng và Tu Nữ thực
hành pháp môn thiền Tứ niệm xứ. Nhìn chung thấy cách tổ chức và phát triển như
vậy hơi khiêm tốn nhưng đầy kinh nghiệm của một bậc thức giả, vì chính những
người tu tập thực sự mới là những người bảo tồn và gìn giữ chánh pháp của đức
Như Lai.
Mặc dù Hòa thượng có di chúc cho
Thượng Tọa Viên Minh kế nghiệp trụ trì, nhưng vì lúc đó Thượng tọa đang nhiệm
chức trụ trì Chùa Kỳ Viên, nên Ðại đức Bửu Ðức thế Thượng tọa điều hành Phật
sự tại đây với tư cách là quyền trụ trì. Về sau, khi Ðại đức Bửu Ðức xuất
ngoại, Thượng tọa Viên Minh trở về trụ trì lại thiền viện Bửu Long. Có thể nói
đời trụ trì của Thượng tọa Viên Minh là một bước chuyển mình rất lớn cho sự
phát triển thiền viện Bửu Long về mọi mặt: xây dựng, văn hóa, xã hội, giáo dục
v.v. như đã trình bày ở phần trên.
Thiền viện Bửu Long ngày nay được xem
như là tổ đình của Phật giáo Nam Tông Việt Nam, tổ đình ở đây không có nghĩa
là ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam, mà là địa điểm cư
ngụ và tôn thờ vị khai sáng Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam. Có thể nói trong
tương lai, thiền viện Bửu Long có thể sẽ là Trung tâm Văn hóa Phật giáo Nam
tông Việt nam, vì Bửu Long hiện nay đang nằm trong khu vực Công viên Lịch sử
Văn hóa Dân tộc. Hy vọng Thiền viện Bửu Long sau này sẽ được xây dựng lại với
kiến trúc đặc thù của Phật giáo Nguyên thủy để tương xứng với các công trình
khác của dân tộc Việt trong khu vực Công viên Lịch sử đó.
Ðịa chỉ: Chùa Bửu Long
81 Tổ 1, Ấp Thái Bình 1,
Phường Long Bình, Quận 9. TP HCM
Tỳ kheo
Thích Thiện Minh
Tháng 05-2001
Nguồn:
www.budsas.org
|