Cảm Niệm Ngày Phật Đản
Thích Phổ Huân
Cách
đây hơn 2500 năm, tại miền Bắc Ấn Độ xuất hiện một vị thái tử. Thái tử lớn lên
trong thương yêu kính mộ như bao nhiêu thái tử con vua mọi vương triều. Tuy
nhiên vị Thái tử có tên Tất Đạt Đa này lại có một điểm hoàn toàn khác biệt với
bao thái tử xưa nay. Đó là việc suy tư trầm tưởng muốn lìa khỏi hoàng cung.
Lìa khỏi hoàng cung không phải đi tìm một nơi vinh quang, phú quí hơn, không
phải vì tìm những con người đáng kính hơn đức vua Tịnh Phan hay xinh đẹp hơn
công chúa Da Du Đà La. Thái tử chỉ đơn giản đi tìm một lý sống, và lý sống ấy
phải hằng hữu bất sanh, bất diệt! Đơn giản mà không đơn giản, bởi không một ai
có thể giúp được thái tử. Không những trong Hoàng cung, với bao người trí thức
bác học đành bó tay, mà bên ngoài hoàng cung khắp xứ, các học giả cũng lắc đầu
xin chịu, kể cả những vị đạo sĩ vốn đắm mình trong đạo thuyết siêu hình bí
thuật cũng chẳng làm Ngài được hài lòng.
Từ bỏ Hoàng cung, lột bỏ long
bào, biến mình thành kẻ hành khất quyết đi tìm chân lý, nên hễ nghe đâu đó có
đạo sĩ nào chứng đạo, đắc pháp liền tìm đến học hỏi. Nhưng rồi mây vẫn là mây,
nước vẫn là nước, huyền thuật đạo sĩ nào rồi cũng trở về với ảnh mộng, khi
duyên khởi xoay vòng nhân quả hết duyên - thuật pháp thần thông - cảnh giới
chiêu cảm không ra khỏi tam giới. Mây lại trở về mây, nước trở về nước; cảnh
giới phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ là những vi tế được dệt nên bằng thức
huyễn là bản gốc cội nguồn từ căn huyễn mà ra. Quả báo phúc lạc dù tồn tại bao
lâu rồi cũng có ngày tiêu mất. Hành giả Tất Đạt Đa phủi mình đứng dậy, tri ân
cảm niệm quý vị đạo sĩ hẹn ngày tái ngộ khi tìm ra chân lý.
Khổ hạnh quá nhiều, thân tâm
hành giả Tất Đạt Đa bây giờ không đủ khí lực tri nhận những ảnh tượng chập
chùng trong biển pháp mênh mông. Ngài bắt đầu dừng lại, dừng lại mọi ý tưởng
lăn xăn từ khi Ngài lột bỏ long bào. Dừng lại dòng suy tưởng đeo đuổi bao cảnh
giới chập chờn như hoa không trước mắt. Hành giả Tất Đạt Đa bình phục thân tâm,
thọ dụng phẩm thực trở lại, bắt đầu chuẩn bị bước vào chân lộ, suy tìm chân lý;
tự thệ với lòng ".. dù nát thịt xương tan, sẽ không rời chỗ ngồi nếu chưa tìm
ra chân lý "
Hành giả Tất Đạt Đa mở ra con
đường theo dòng duyên khởi của kiếp sống - bắt đầu là - Vô minh đi đến hành,
thức; từ hành, thức tạo thành danh sắc, để theo danh sắc kết nên lục nhập, rồi
từ lục nhập dẫn đến xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử.
Dòng duyên khởi sinh tử tạo
nên pháp hữu vi, dẫn đưa một chúng sanh vào vòng mắc xích, cái gọi là luân hồi.
Và rồi từ đây hành giả Tất Đạt Đa thấy được duyên khởi lộ ra chân diện đạo mầu,
sáng tỏ cội nguồn của sanh tử kết nên bốn điều vi diệu gọi là Tứ Diệu Đế, mà
bất cứ hành giả nào cảm được, hành động theo sẽ ra khỏi tam giới.
Ngài soi rõ nguyên nhân thuận
nghịch của dòng duyên khởi - phát hiện mọi hình ảnh quá khứ từ một kiếp qua,
rồi lần lượt đến hai, ba, mười, trăm, ngàn cho đến vô số kiếp - thấy biết một
cách rõ ràng như hình ảnh hiện tại. Bấy giờ hành giả đã đi vào chân cảnh thông
suốt mọi tướng pháp, biết rõ cùng tận nghiệp tánh chúng sanh, và tự tại đem
pháp mầu này làm lan tỏa đến muôn người muôn vật. Ngài đã chứng ngộ, đã thành
đạo, đã hoàn toàn là bậc Chánh Giác Đấng Biến Tri và là người duy nhất được
kính mộ nhiều nhất trên cõi Ta Bà này.
Đấng giải thoát nhẹ nhàng
đứng dậy, tri ân cây cổ thụ nơi che thân cho Ngài suốt những ngày qua. Từ đây
giống cây này được mang tên giác ngộ là Bồ Đề.
Ngài từ bi quán sát thương
tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp,
đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
Từ thành thị đến thôn quê,
nơi nào Ngài đến nơi đó ánh sáng từ bi lan tỏa. Hạnh từ bi tâm vị tha lòng vô
ngã hiển hiện nơi thân tướng, hành vi của Ngài, do vậy pháp Ngài thuyết cụ thể
hơn hết là cách sống hành xử, là oai nghi thanh tịnh. Chính những bài pháp như
vậy đã dẫn độ bao hàng đệ tử chóng đạt Thánh quả, và bao người kính mộ, bỏ tà
quy chánh trở thành toàn thiện.
Rồi thời gian qua, rồi vô
thường đến, thân xác giả tạm của Ngài già yếu đi - Ngài tuyên bố từ giả chúng
đệ tử để vào Niết Bàn.
Rừng Câu Thi Na, chỉ một lời
từ bi tối trọng: Hãy lấy giới luật làm thầy các người khi Như Lai còn hiện hữu;
giới luật không có, sự có mặt của Như Lai cũng trở thành vô ích. Ngài tự tại
bình yên thị tịch - thế giới chấn động, mọi vật chung quanh như ngưng lại sự
sống, lịm dần niềm thương tiếc vì vắng bóng đấng Từ Bi.
Ngày nay đã hơn 25 thế kỷ,
lời Ngài dạy vẫn còn, giáo pháp căn bản Tứ Diệu Đế vẫn bất di bất dịch. Chúng
ta người con Phật không may mắn diện kiến được Ngài, nhưng vẫn còn nghe được
lý sống vi diệu mà Ngài đã để lại cho đến ngày nay.
Nhưng rồi chúng ta sẽ phải
làm gì để hành động theo lý sống vi diệu ấy! Hay để rồi trải thêm mấy ngàn năm
nửa, liệu ta có đạt được thế giới Niết Bàn, nơi mà những người thực hành theo
giáo pháp vi diệu ấy đạt được. Hay ta lại loay hoay trong lục đạo, mà bất hạnh
thay, giáo pháp vi diệu ngày đó sẽ không còn nghe đến nữa. Hoặc tệ hơn thân
tâm ta không phải ở thế giới loài người, chừng ấy dù còn giáo pháp ta cũng
chẳng hiểu gì.
Dòng sanh tử vẫn ngút ngàn,
nếu chúng ta không kịp quay về tìm cho mình con đường giải thoát.
Con đường giải thoát, vẫn còn
đó, rõ ràng hơn lúc nào hết trong thế giới ngày nay, đó là giới đức giới hạnh
của một người nghe được giáo pháp vi diệu. Vậy không thể chần chờ, ta hãy lên
đường đi vào diệu pháp, để không tiếc uổng bấy lâu nay nhìn giáo pháp vi diệu
mà tưởng rằng chỉ là những điều xa vọng.
một góc Lâm Tỳ
Ni ngày nay |