Dòng Lệ A Tư Đà
Thích Đồng Thành
Vào một buổi sáng kia, kinh
thành Ca Tỳ La Vệ bỗng trở nên nhộn nhịp, tươi vui và khác lạ hơn mọi ngày.
Bầu trời hôm ấy thật quang đãng và trong mát, cấy cối tươi thẳm lạ thường,
muôn hoa ngời sắc dưới nắng hồng và toả ra những làn hương thoang thoảng dịu
ngát, từng đàn chim ríu rít vui hót trên những hàng cây xanh và xa xa vọng lại
những những âm thanh trầm lắng của từng lời kinh, từng hồi chuông vang vọng từ
các ngôi đền nguy nga, cổ kính. Tin vui về Hoàng Hậu Ma Da vừa sinh hạ được
một hoàng nam đã nhanh chóng vang đi khắp chốn trong vương quốc của bộ tộc
Thích Ca, lan truyền đến các quốc gia lân cận, đến cảnh giới của chư thiên xa
xôi, đến những bậc hiền sĩ đang ẩn tu trên những đỉnh núi cao quanh năm phủ
đầy tuyết trắng của dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong đó có đạo sĩ A Tư Đà.
A Tư Đà vốn là con trai của
một Bà La Môn xứ Ujjenì thơ mộng và trù phú. Với tư chất thông tuệ, uyên bác,
ông đã sớm trở thành một người đức độ, thông thái và được dân chúng xứ ấy tôn
xưng là hiền giả khả kính. Khi danh tiếng vang xa khắp nơi, A Tư Đà được
Sìhahanu, thân phụ của vua Tịnh Phạn, mời về cung để truyền dạy đạo lý siêu
thế cho mình. Được phép Vua Sìhahanu, A Tư Đà bèn cất một am tranh tại một khu
vườn trong kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tu trì và cũng để vua có dịp được học hỏi
thêm những khi rảnh rang việc triều chính. Tại am thất đơn sơ này, với những
nỗ lực cao độ của mình, chẳng bao lâu, A Tư Đà đã thành tựu tám cấp độ thiền
định và chứng đắc ngũ thông. Vì quá khao khát với lý tưởng giải thoát, muốn
vượt qua những sở chứng hiện có, ông liền từ giã chốn đô thị huyên náo, lên
đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và dành trọn quãng đời còn lại của mình trong cảnh u tịch
vắng vẻ của chốn thâm sơn hoang dã.
Kinh Lalitavistara (Thần
Thông Du Hí) kể lại rằng vào một ngày kia, với thiên nhĩ thông của mình, A Tư
Đà bỗng nghe chư thiên trên cung trời Tam Thập Tam hân hoan ca múa và truyền
nhau tin vui rằng: “ Một hoàng nhi vừa chào đời tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ.
Hoàng nhi ấy sau này sẽ trở thành một đấng toàn giác, một bậc đạo sư của chư
thiên và loài người.” “Ta có nghe lầm chăng?” A Tư Đà tự hỏi, và
rồi ông dùng thiên nhãn quan sát và biết được rằng Hoàng Hậu Ma Da đã hạ sanh
được một hoàng nhi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hài nhi đã được đưa về thành Ca Tỳ La
Vệ. Thân của hài nhi này có đầy đủ đức tướng hy hữu và toả ra những vầng hào
quang kỳ diệu vô ngần. Liền khi ấy, A Tư Đà liền dẫn người thị giả và cũng là
cháu của mình là Naradatta về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tận mắt chiêm ngưỡng
đức tướng của một thánh nhân vừa giáng trần.
Khi đến trước cổng hoàng cung,
A Tư Đà thấy hàng ngàn người đang tụ hội tại đây, họ từ khắp nơi đổ về mang
theo những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, những cổ trầm hương quí nhất, ngạt
ngào nhất cùng vô số lụa là, vật báu để dâng lên đức vua, mừng cho dòng tộc
Thích Ca vừa sanh được một hoàng nhi cao quí, người sẽ tiếp nối sự nghiệp của
hoàng triều và sẽ làm rạng rỡ đất nước này. A Tư Đà đến bên người lính gác
cổng và nhờ anh ta vào báo với hoàng gia.
Được tin có một đạo sĩ từ
đỉnh Hy Mã Lạp Sơn đến thăm, Vua Tịnh Phạn vô cùng mừng rỡ và liền cho mời A
Tư Đà vào đại sảnh. Sau khi thi lễ chào hỏi xong, nhà Vua bèn cất tiếng:
- Thưa Đạo Sĩ, Trước đây quả
nhân chưa từng gặp ngài, vậy thì vì mục đích gì mà hôm nay ngài quang lâm đến
đây?.”
- Muôn tâu Hoàng Thượng,
ngài vừa có được một người nối dõi cao quý và xứng đáng,
lão đến đây để mong được tận mắt xem hoàng nhi ấy.
Khi nhìn thấy hài nhi có đầy
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân ánh lên những vầng hào quang
siêu việt hơn cả phước tướng của Đế Thích, Phạm Thiên và tất cả các thiện thần
hộ thế khác, A Tư Đà liền thốt lên rằng:
- Kỳ diệu thay! Bậc thánh
nhân này là phước lành cho cõi thế.
Liền khi ấy, A Tư Đà liền rời
khỏi chỗ ngồi, chắp tay đảnh lễ và cúi đầu đặt trán hôn lên đôi chân bé nhỏ
của hài nhi, rồi lại đi nhiễu bên phải hài nhi một vòng. Ngắm nhìn kỹ diện mạo
và kim tướng của hài nhi, A Tư Đà lặng người lại, những giọt nước mắt chợt lăn
xuống đôi gò má già nua, nhăn nheo đầy phong sương của Đạo Sĩ. A Tư Đà đã
khóc, niềm bi cảm dâng trào trong tâm hồn thanh khiết của một bậc hiền nhân.
Nhìn những giọt nước mắt cùng
cử chỉ ảo não, đau xót của A Tư Đà, Vua Tịnh Phạn vô cùng ngạc nhiên và lo âu.
Người bước đến bên cạnh Đạo Sĩ và cung kính thưa rằng:
- Thưa Đạo Sĩ, sao ngài lại
đau xót và than khóc như vậy? Có điềm gì bất hạnh sẽ xảy đến với hài nhi này
chăng?
- Tâu Hoàng Thượng, lão khóc
là không phải khóc cho hài nhi này, sẽ không có điều gì bất hạnh xảy ra đối
với một con người thánh thiện như thế cả. Lão khóc là khóc cho chính mình. Vì
sao vậy? Tâu Hoàng Thượng, lão đã già nua, yếu ớt, thân thể cằn cỗi như một cỗ
xe rệu rã, còn hài nhi này chắc chắn sẽ trở thành một bậc toàn giác tối thượng,
Ngài sẽ chuyển bánh xe chánh pháp mà từ xưa nay chưa có một Đạo Sĩ, Sa Môn,
Bà La Môn, Thiên thần, Ma Vương…trên thế gian này chuyển được như vậy. Vì lợi
ích và hạnh phúc cho nhân gian, Người sẽ tuyên thuyết chánh pháp sơ thiện,
trung thiện và hậu thiện, với nghĩa lý và văn tự đầy đủ. Tâu Đại Vương, hoa Ưu
Đàm ngàn năm mới nở một lần, cũng thế trải qua vô lượng kiếp chư Phật mới thị
hiện trên thế gian này. Hoàng nhi này chắc chắn sẽ chứng ngộ trí tuệ vô thượng,
sẽ dẫn dắt vô số chúng sinh vượt thoát đại dương luân hồi để đến cảnh giới
giải thoát, bất tử. Nhưng lão sẽ không gặp được một Đức Phật
cao quý như thế. Đại Vương ơi, lão khóc là khóc cho mình bạc phước kém
duyên, thọ mạng không còn bao lâu nữa để được nghe Đấng Giác Ngộ tuyên giảng
chánh pháp, để được đảnh lễ và cúng dường bậc đạo sư của chư thiên và loài
người…”
Những giọt lệ của A Tư Đà là
kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn
đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu. Những tri thức cao siêu, thâm sâu và đầy
vẻ u huyền trong những bộ thánh kinh Vệ Đà ông đã thông suốt, những kinh
nghiệm tu trì siêu tuyệt đương thời ông đã trải qua,
những sở chứng cao tột nhất ông đã đạt được, nhưng vấn nạn về lẽ tử sinh cứ
mãi bám víu, đeo đẳng tâm hồn của bậc Đạo Sĩ.
A Tư Đà không phải như những
phàm nhân tầm thường chỉ biết quanh quẩn trong kiếp người với những giả tạm,
phù phiếm của trần thế. Ông là một người có chí khí, có tri thức uyên bác và
khát vọng cao thượng, và vì thế ông đã từ bỏ tất cả những vướng bận của trần
duyên, đã đi khắp nơi học hỏi đạo lý và đã đạt được những kinh nghiệm tâm linh
cao cả nhất mà đương thời ít có ai bì kịp. Với thiên nhĩ thông, thiên nhãn
thông, tha tâm thông…ông có thể lắng nghe, nhìn thấy và thấu cảm được những
việc xa xăm trong vũ trụ, những cảnh thăng trầm của cuộc thế huyễn mơ, những
tâm tư của bao trái tim khác, nhưng oái oăm thay, ông lại không trực nhận,
không lắng nghe và cũng chẳng tỏ ngộ được tự tánh thanh tịnh
của chính mình. Những triền phược của vô minh vi tế không để cho ông được
tự tại, thong dong trong cảnh giới giải thoát viên mãn. A Tư Đà đã khóc và cảm
thấy tự thẹn cho chính mình không đủ phước duyên để được nghe diệu pháp của
Đức Phật, không được qui ngưỡng và hành trì theo pháp môn của Ngài.
Có lẽ A Tư Đà không chỉ khóc
cho chính mình mà còn khóc cho những ai vẫn đang chơ vơ, lạc lõng, mờ mịt,
không tìm được hướng đi sáng lạng trong cuộc đời thật ngắn ngủi này. Trong
cuộc sống, có biết bao người đã đến và đi trong lo âu, phiền muộn, mang theo
mình nỗi buồn của lẽ tử sinh. Những con người ấy cũng chẳng khác chi những hạt
bụi đang lãng du, phiêu bồng trên những sa mạc khô cằn,
hun hút. Chúng đến và đi, sanh khởi và hoại diệt trong cô đơn, quạnh quẽ. Từ
thuở hồng hoang của nhân loại cho đển tận hôm nay và có lẽ đến tận mai sau nữa,
khát vọng tìm về với chân lý, với ý nghĩa đích thực của cuộc sống vẫn là một
động lực mãnh liệt, thôi thúc bao lớp người từ mọi phương trời khác nhau dấn
thân vào những cuộc hành trình tâm linh xa xôi và kỳ vĩ, và rồi những ai chưa
đủ duyên lành để gặp gỡ và an trú vào chánh đạo sẽ là nhưng người bất hạnh
nhất trên cuộc đời này. Nghèo đói, mồ côi, bệnh tật v.v…được xem là những nỗi
bất hạnh trong đời người, song người ta có thể khắc phục những chướng duyên
ấy bằng cách này hay cách khác. Sống mà không gặp được các bậc chân sư soi
sáng và dẫn lối cho đời mình, để nhận diện và trở về an trú trong con người
thật của chính mình thì đó mới là nỗi bất hạnh lớn lao và đáng sợ nhất.
Cha mẹ cho chúng ta hình hài
trong trắng, cuộc đời cho chúng ta nguồn sống bao la, bạn bè cho chúng ta hơi
ấm của tình người, và các vị thầy tâm linh đã cho chúng ta kho báu chánh pháp,
dìu dắt chúng ta về với nếp sống chánh đạo an tịnh mà sâu lắng, bình dị mà
thiêng liêng. Chánh pháp của Đức Thế Tôn là vô giá vì diệu dụng của nó thật
bất khả tư nghì. Kinh tạng Nguyên Thuỷ và Đại Thừa và có
kể rằng trong nhiều kiếp quá khứ, khi còn là một hành giả đang tầm đạo, Đức
Phật đã hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả tánh mạng của mình để mong học được
giáo pháp chân chính. Những ai đón nhận và thọ trì chánh pháp với tâm niệm
nhiệt thành thì mới thể nghiệm được sự vi diệu của nó. Thiện Tài Đồng Tử, nhị
tổ Huệ Khả, pháp sư Huyền Trang, thiền sư Lâm Tế…là những tấm gương toả sáng
về tinh thần tha thiết, khát ngưỡng, cầu học chánh pháp trong Đạo Phật.
Càng về sau, những tấm gương
cầu pháp như thế thật hiếm hoi. Cuộc sống trong xã hội văn minh đã cuốn hút
con người vào quĩ đạo của guồng máy vật chất và hưởng
thụ. Con người phần nhiều chỉ biết an phận với những niềm vui thế tục mà mình
đang hiện có. Có một lần, lạt ma Dorje Khensen đưa sư phụ mình là Dudjom
Rinpoche ngang qua một nghĩa trang. Nhìn những ngôi mộ thẳng tắp chạy dọc trên
những thảm cỏ xanh cùng những luống hoa đủ màu đang khoe sắc, ông khen rằng:
- Thầy ơi, người Tây Phương
quả thật văn minh. Ngay cả nơi dành cho xác chết cũng đẹp đẽ, sạch sẽ.
Hoà Thượng Dudjom mỉm cười và
trả lời:
- Đúng, họ văn minh, con
cũng thấy rằng nơi dành cho “xác sống” còn đẹp và sạch hơn thế nữa kia.
Phần lớn con người sống mà mơ
hồ, không ý thức được sự sống. Họ cũng chẳng khác gì với những xác chết biết
đi. Người ta sống theo một khuôn mẫu đã vạch sẵn: nhỏ thì học hành, trưởng
thành thì lo kiếm việc làm, sau đó thì lập gia đình, sinh con, đẻ cái, lo mua
nhà cửa, xe cộ, đến tuổi trung niên thì lo danh vọng, địa vị, tài sản…Hình như
họ chỉ biết lo chứ không biết sống. Vì cứ mải miết lo
như vậy nên những nội kết cứ tích chứa ngày càng nhiều trong tâm thức, đến một
lúc nào đó một biến cố bất ngờ xảy, dù là nhỏ nhoi, cũng làm cho họ chao đảo
và rơi vào nhưng bi kịch thương tâm. Vì thế khi sống mà không tiếp xúc được
với ý nghĩa thực sự của cuộc sống thì con người đâu có khác chi những “xác
sống” trong dòng đời.
Khác với A Tư Đà ngày xưa,
người đời sau này cũng đã khóc, khóc vì thời cuộc nhiễu nhương, vì chiến tranh
thiên tai, vì lòng người tao loạn, vì vô thường nguy biến…những cái khóc như
thế thường mang tính cảm quan của tâm thức phàm tục. Một hôm Vua Linh Công
cùng với Di Tử Hà và các quan đại thần trong triều cùng lên núi cao để du sơn
ngoạn cảnh. Nhìn thấy muôn người sống trong cảnh phồn vinh, giang sơn gấm hoa
một dãi mênh mông, vua không cầm lòng được và chợt khóc oà lên: “ Ôi đất
nước ta đẹp quá, giang sơn cẩm tú đẹp quá, nhưng các khanh ơi, trẫm đã già nua,
sẽ chẳng còn sống bao lâu nữa để tận hưởng mọi thú vui của cuộc đời này.”Lúc
ấy, các quan thấy thế cũng hùa theo mà khóc, riêng Di Tử Hà thì cười ngặt
nghẽo, cười như bao giờ được cười. Di Tử Hà đã cười cho tham vọng hão huyền
của nhà vua cứ muốn sống mãi và làm vua mãi để hưởng thụ những cái vui thoáng
chốc của cuộc đời, lại cười cho hàng quan lại không phân định được đúng sai,
phải trái của thế sự mà chỉ biết làm theo một cách mù
quáng để lấy lòng nhà vua mà thôi.
Thuở xưa, có đôi lúc các bậc
hiền nhân cũng đã khóc, nhưng sự rung động của những trái tim kỳ vĩ, cao cả đó
không phải là sự bi luỵ trước những vô thường, thịnh suy của cuộc sống mà thay
vào đó là niềm thao thức, là tâm niệm vị tha, hướng thượng của đời mình. Doãn
Am Thiền Sư là một bậc cao tăng đức độ, giới luật nghiêm trì. Mỗi khi chiều
xuống, Ngài đứng nhìn mặt trời đang khuất dần nơi chân trời xa thẳm mà rơi lệ,
lòng tự thẹn rằng một ngày đã qua mà mình chưa tiến bộ được bao nhiêu trên
trong con đường giải thoát. Sau đó Liên Trì Đại Sư mỗi khi nhìn mặt trời lên,
ngài thường nhắc lại lời than thở của Doãn Am Thiền Sư và tự khuyến tấn mình
rằng : “ Kim hựu hoán nhật. Tạc nhật dĩ thành không quá, vị tri kim nhật công
phu như hà?”( Hôm nay lại sang một ngày mới. Hôm qua công phu đã chưa được gì,
không biết hôm nay ta có đạt được công phu gì chăng?). Ngài Liên Trì vốn là
một hành giả Tịnh Độ nổi tiếng, một bậc chân tu tinh nghiêm, nhưng vẫn luôn dè
dặt, cẩn trọng và luôn tự khuyến tấn mình. Quả thật, đó là một tấm gương sáng
để những hành giả thời nay phải suy tư.
Theo Kinh Phật Bản Hạnh, khi
Bồ tát giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, thân ngài toả ra những vầng hào quang
trong suốt, trái đất chấn động, chư thiên trên sáu tầng trời cõi dục ca hát và
loan truyền nhau tin vui này. Lúc ấy, A Tư Đà từ cung trời Tam Thập Tam trở về
nơi ẩn tu và dẫn một môn đồ của mình vào thành Ca Tỳ La Vệ. Khi sắp đến thành,
A Tư Đà nghĩ rằng không nên thi triển thần thông mà hãy đi bộ vào thành. Hôm
ấy mọi người trên phố nhìn Đạo Sĩ với vẻ hiếu kỳ, có kẻ đứng trước cửa, có
người từ cửa sổ, người khác thì dựa vào bao lơn…chăm chú theo từng bước đi của
ông. Họ nhìn ông và thì thào với nhau:
- Trước đây, khi vào thành,
vị đạo sĩ này nương thần thông mà đến thẳng hoàng cung, nhưng sao hôm nay ông
lại bước chầm chậm như vậy?
Khi xem tướng thái tử, Đạo Sĩ
luôn tỏ vẻ cung kính và ngưỡng mộ trước đức tướng của một thánh nhân. Bao
nhiêu vật báu mà Vua Tịnh Phạn dâng tặng, Đạo Sĩ đều đem dâng cúng cho thái tử.
Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trên người của thái tử đã nói lên một
sự thật là thái tử sau này hoặc trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc trở
thành một Đấng Giác Ngộ. A Tư Đà tỏ vẻ cung kính, bi cảm rơi lệ, thương cho
thân phận mình vì ông biết rằng hoàng nhi này sẽ không là một Chuyển Luân
Thánh Vương thông thường mà nhất định sẽ trở thành một Đức Phật.
Chuyển Luân Thánh Vương là
danh từ chỉ cho một vị đại vương tài đức,dùng chánh pháp cai trị cả bốn châu
thiên hạ. Vị vua này có đủ bốn đức: sống lâu, không bệnh tật, dung mạo đẹp đẽ
và kho báu dồi dào. Tuy nhiên, những phước đức hữu lậu đó không thể sánh với
những phẩm tính siêu việt của một Đức Phật. Có lần Bà La Môn Sela được chiêm
ngưỡng đức tướng của Đức Phật, ông bèn thốt lên rằng:
- Thưa đức Cồ Đàm, Ngài có
đầy đủ phước tướng của một Chuyển Luân Thánh Vương, người sẽ cai trị cả bốn
châu thiên hạ.
Đức Phật liền đáp:
- Đúng thế Sela, ta là quốc
vương, nhưng vương quốc của ta là chánh pháp, nơi đó không có tước vị. Ta cũng
chuyển pháp luân, nhưng pháp luân ấy không hề thoái chuyển.
Bản sớ giải của kinh Tương
Ưng có giải thích rằng nếu Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu là xe báu, voi
báu, ngựa báu, tướng quân báu, châu báu, nữ báu và gia chủ báu thì Đức Phật
cũng có bảy món báu tương ưng (Thất Giác Chi) khác:niệm, trạch pháp,tinh tấn,
hỷ, khinh an, định và xả. Còn bản chú giải của kinh Tăng Chi thì so sánh năm
phẩm chất giữa Chuyển Luân Thánh Vương với Đức Phật như sau: nếu Chuyển Luân
Thánh Vương biết thiện; biết pháp( truyền thống và phong tục truyền thừa);
biết thời (lúc nào nên đăng triều, lúc dạo chơi, lúc xem xét thiên hạ); biết
chúng ( phân định hàng quí tộc, Bà La Môn…); và biết lượng ( thưởng phạt công
tâm), thì Đức Phật cũng biết năm đặc tánh của thiện; biết pháp Tứ Đế; biết lúc
nào nên giảng pháp; biết đâu là quí tộc, Bà La Môn, Tỳ Kheo…; và biết thọ nhận
tri túc tứ sự cúng dường. Trưỡng lão Vagisa từng tán thán rằng Đức Phật cũng
như một vị Chuyển Luân Thánh Vương(có ngàn người con và cận thần bao quanh) có
ngàn vị Tỳ Kheo kề cận hộ trì. Trong Kinh Trung Bộ, Tôn giả Vô Não đã ca tụng
rằng Đức Phật đã hoá độ hàng đệ tử mình với tâm lượng từ dung, không thúc ép
và bức bách một ai cũng như Chuyển Luân Thánh Vương luôn cai trị muôn dân mà
không dùng đến binh đao, gậy gộc. Các bản kinh Pali thường khắc hoạ và nhấn
mạnh đến tính thế tục trong hình ảnh của Chuyển Luân Thánh Vương khác biệt với
hình ảnh siêu thoát của một Đức Phật, bậc đạo sư của thế giới tâm linh.
Mọi hình thái, thể chế xã hội
được thiết lập theo những khuôn mẫu trong phạm vi tương đối của mỗi quốc gia
và chủng tộc. Theo đà tiến hoá chung, các cơ cấu ấy sẽ được thay đổi theo điều
kiện và nhu cầu của thức tế. Có lẽ đỉnh cao của mọi hình thái đó là một thế
giới hưng vượng mà mẫu người lãnh đạo đó là Chuyển Luân Thánh Vương. Nhưng rồi
thế giới ấy có lúc cũng phải biến đổi và có những vị Chuyển Luân Thánh Vương vì
thấu rõ tính vô thường nên xả bỏ tất cả để sống một cuộc
đời phạm hạnh viễn ly ( Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống).
Không như Chuyển Luân Thánh
Vương ngồi trên ngai vàng để cai trị thiên hạ, Đức Phật với tấm y hoại sắc và
bình bát đơn sơ đã du hoá khắp nơi để trang trải ánh sáng của tình thương và
tuệ giác. Ngài đã vượt qua những con đường dài hun hút đầy sỏi đá chông chênh,
an nhiên, điềm tĩnh với cái nóng hừng hực của mùa hạ, cái lạnh thấu xương của
mùa đông, bình thản trước mọi thị phi, hiềm thù của nhân thế. Nơi Ngài ngồi
giảng pháp và nghỉ ngơi là những phiến đá xanh, những bãi cỏ hiền hoà thơ mộng
nằm cạnh những dòng nước tươi mát, thơm trong, bên dưới những tàn cây rậm rợp
và hùng vĩ. Mỗi hành vi, cử chỉ và lời nói của Ngài là những bài học thâm thuý
cho bất cứ ai trên cõi đời này. Đạo sĩ A Tư Đà đã suy nghiệm được bài học ấy,
đã cảm nhận được sư giao thoa mầu nhiệm, thiêng liêng của Đức Phật ngay từ khi
Ngài còn là một hài nhi sống trong nhung lụa vàng son. A Tư Đà buồn tủi vì
biết mình sẽ không sống được bao lâu nữa để trở thành một thành viên trong gia
đình tâm linh thanh tịnh, một thần dân trong vương quốc chánh pháp của Đức
Phật. Vương quốc tâm linh đó được khơi nguồn từ tâm hồn sâu lắng của Đức Thế
Tôn tại Bồ Đề Đạo Tràng, lan toả đến năm nhà khổ hạnh tại Lộc Uyển, thấm nhuần
đến một nghìn hai trăm năm mươi vị thánh tăng tại Ma Kiệt Đà, Kiều Tất La…, và
rồi đến hàng triệu con tim trên khắp hành tinh này.
Thế hệ Phật tử hôm nay và
mai sau sẽ luôn cảm thấy tự hào và sung sướng vì giữa một thế giới đầy sầu hận
bi hoang, họ đã được diễm phúc hội ngộ và an trú trong suối nguồn chánh pháp
thanh lương và an lạc. Họ sẽ luôn biết nâng niu, trân quí những gia tài pháp
bảo mà các bậc tiền nhân đã để lại, luôn ý thức được trách nhiệm của mình
trong việc bảo tồn kỳ quan chánh pháp và sẽ sống bằng trọn trái tim hiểu biết
và hướng thượng như lời nhắn nhủ của Hoà Thượng Nàrada: “ Có những quốc gia
hình thành rồi tan rã, có những đế quốc được xây dựng trên bạo lực và cường
quyền đã trở nên hưng thịnh rồi suy vong, nhưng vương quốc chánh pháp của Đức
Phật, được kiến tạo bằng tình thương và tuệ giác sẽ mãi phồn thịnh và tiếp tục
thịnh vượng cho đến khi nào người con Phật biết vâng giữ những nguyên tắc cao
thượng của chánh pháp.”
Mùa Phật Đản PL 2548
Thích Đồng Thành
Tài liệu tham khảo:
The Lalitavistara, Tr by R.L. Mitra, Delhi,
1998
Malalasekera G.P, Encyclopaedia of Buddhism,
Vol II , Ceylon, 1966
Nàrada, The Buddha and His Teachings, Malaysia,
1988
Samuel Beal,The Romantic Legend of Sàkya
Buddha, M.Banarsidass, 1985
Thomas Ed, The Life of Buddha as Legend and
History, M.Munshiram, 1992
Wimalaratana, Concept of Great Man, B.
Singapore, 1998
|