DUYÊN PHẬT SANH
Quảng Diệu - Trần Bảo Toàn
Thời gian bay biến đối với kiếp nhân sinh như bóng câu
qua cửa, như giấc mộng kê vàng. Nhân sinh quả,
quả sinh nhân, trùng trùng điệp điệp, vô thủy vô
chung, vô cùng vô tận. Trăm năm qua một kiếp
người, nghiêng vai nhìn lại khóc cười chóng thay.
Ái, ố, lạc, bi, khổ như những mắt lưới vô hình
giăng mắc, giam giữ con người trầm lạc trong cõi
vô minh, trôi nổi trong luân hồi sinh tử.
Nếu có hành giả giác ngộ đứng quan sát
chúng sinh, chắc chắn thức giả ấy phải kêu lên
thương xót: "Than ôi, chúng sinh quanh quẩn
trong luân hồi sinh tử như kiến bò miệng bát,
như trẻ lên ba cố trèo qua bờ tường thước rưỡi!".
May nhờ Tam Bảo, chúng sinh bớt khổ vì mê mờ
lầm lạc. Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
đã tìm ra con đường giải thoát, ngài chuyển
Pháp Luân và truyền thừa mệnh mạch Phật giáo qua
hình ảnh Tăng Già. Từ nhân duyên khởi điểm ấy,
mãi đến hôm nay dẫu đã hơn 2500 năm trôi qua,
chúng sinh vẫn được hưởng an vui. Tùy phước phận
mỗi người, các vị xuất gia chân tu đắc được an lạc
tự tại thường trụ nơi tâm, bạch y cư sĩ thì tùy
hỷ công đức mà có được những chuỗi tháng ngày
thanh lương thong thả! Người học Phật (cả xuất
gia lẫn tại gia) sau khi thấm nhuần giáo pháp vi
diệu, họ hành Bồ Tát Ðạo, cung kính với mọi
chúng sinh có nhân duyên với họ, phát nguyện độ
khắp tất cả chúng sinh, sau đó còn hồi hướng
công đức cầu cho tất cả chúng sinh đều thành Phật.
Nếu một người có nhân duyên tìm đến Phật Thừa,
ta bảo người ấy có DUYÊN PHẬT, thì khi người ấy
mang chủng tử Phật tiếp tục trao truyền đến
chúng sinh hữu duyên khác, ta có thể gọi sự kiện
ấy là DUYÊN PHẬT SANH!
Vâng, tôi sử dụng Duyên Phật Sanh để
chỉ các khóa học Phật Pháp Châu Âu do Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) Châu Âu
tổ chức vào mùa hè hằng năm, để Phật tử có nhân
duyên lãnh hội các thời hóa duyên, thuyết Pháp của
chư Tôn Ðức.
Năm 2003 cũng giống như bao năm trước đây,
từ đầu mùa hạ bà con Phật tử gần xa đã ơi ới rủ
nhau khăn gói đi tu! Người thì chuẩn bị lấy hè,
người lo phương tiện chuyên chở, người lo trì tụng
Lăng Nghiêm, quyết thuộc lòng trước khi thọ Bồ
Tát Giới, có vị ham dzui chỉ lo viết kịch,
làm thơ, soạn vũ khúc, diễn tuồng v.v... mong trổ
tài biểu diễn, trên là cúng dường chư Tôn Ðức,
dưới phục vụ đạo hữu ít giây phút thoải mái sau
những ngày tận tâm, tận lực "nhồi Duy Thức,
nhập Tánh Không" trong suốt khóa Huân Tu. Phải
thành thực công nhận rằng: Khóa Phật Pháp vào mỗi
mùa hè đã đóng một vai trò hết sức thiết yếu
trong đời sống cư sĩ Phật tử tại Châu Âu.
Như bản thân tôi, năm nay do ảnh hưởng suy
thoái kinh tế thế giới, không thể nhận thêm người
thay thế khi vài ba đồng nghiệp mãn duyên với sở,
nên bận rộn túi bụi, không làm sao sắp xếp lấy
thêm hè để tham dự khóa học từ đầu đến cuối như
Ba Mẹ tôi được. Nhưng nhớ lời hứa năm kia tại Thụy
Ðiển, không ít thì nhiều phải tham dự. Suy qua
tính lại, tôi bèn đặt vé đi tu 5 ngày cuối khóa
(khóa học kéo dài 10 ngày từ 18 đến 28 tháng bảy),
thi sĩ Tuệ Kiên ở Texas biết chuyện bèn viết
email khôi hài rằng "chúc cháu hưởng nhiều lợi lạc
tinh tấn trong pháp môn tu học nửa mùa!".
Cảm quan khác lạ khởi sanh trong tâm thức
tôi, đây là lần đầu tiên tôi không đến với khóa
học trong vị trí người khách, mà trong
vai trò người chủ. Cảm giác quen thuộc,
thân thương nào đó chiếm hữu tôi, để tôi phải buột
miệng kêu lên: Ồ, không phải ta đi đến với
khóa học Phật Pháp, mà là ta về với Tam Bảo!
Giống đứa con hoang đàng trở lại nhà cha, sau
chuỗi ngày giang hồ gió bụi. Ngày trước, tôi chỉ
học Phật qua lăng kính khoa học, triết lý...
thành ra rất ngại ngùng khi sử dụng những từ ngữ,
phương tiện thông dụng trong các đạo tràng Phật
Giáo. Chao ôi, những danh từ như Ngưỡng Bạch,
Cung Thỉnh, Triêm Ân, Tán Thán... những đồ dùng
như Vạt Hò, Áo Tràng, Tràng Hạt, Tọa Cụ... sao
mà xa lạ với tôi quá sức. Nhất là gặp các Thầy
Cô trẻ, tôi không biết xưng hô sao cho phải, nên
thường dùng câu không có chủ ngữ hay thiếu vị ngữ.
Nhưng nay tất cả những phương tiện, ngôn từ đó
trở thành quen thuộc trong đời sống hàng ngày của
tôi. Hơn nữa, tôi đã Quy Y Tam Bảo, giữ gìn Ngũ
Giới, hàng ngày trì tụng Kinh Ðiển, Chú Lăng
Nghiêm, Ðại Bi Ðà Ra Ni... Chính vì vậy, tôi giống
người cùng tử, đã dám mon men đến gần đấng Trưởng
Giả Cha Lành và khẽ gọi nho nhỏ Cha ơi!
Ðan Mạch là một vương quốc nhỏ, nằm phía Bắc
nước Ðức, tiếp giáp với Thụy Ðiển, Na Uy. Diện
tích khoảng 80.000 cây số vuông, dân số trên dưới
5 triệu người. Dân Ðan Mạch sống chính yếu nhờ
các nông sản thực phẩm, ngư nghiệp, dịch vụ du lịch,
bào chế dược phẩm (hãng Novo Nordisk nổi tiếng
trên thế giới với thuốc chống tiểu đường), ngân
hàng v.v... Mặc dù là thành viên trong Liên Hiệp
Âu Châu, song Ðan Mạch vẫn sử dụng đồng Kroner
chứ không chịu dùng đồng Euro. Ðã hai lần chính
phủ kêu gọi người dân biểu quyết dùng đồng Euro
làm đơn vị tiền tệ quốc gia, song đều bị đa phần
bác bỏ. Trái ngược với Na Uy, Ðan Mạch không có
các mỏ dầu lớn nhỏ. Người dân Ðan Mạch vẫn thường
bảo họ là những người bị Thượng Ðế ruồng bỏ, tổ
tiên họ là những tên cướp biển Wikinger. Lương
hướng tại Ðan Mạch khá cao, song thuế thu nhập
cũng không dưới 50%. Ðời sống an sinh xã hội rất
tốt, các phương tiện công cộng như bệnh viện,
trường học đều miễn phí. Người già, người thất
nghiệp và thanh niên được chính phủ chu cấp đầy
đủ. Một thanh niên tròn 18 tuổi, chính phủ trợ cấp
cho khoảng 3.500 Kroner (hối đoái 1 USD = 7
Kroner) mỗi tháng, họ có thể ra mướn nhà ở riêng,
tự lập và đi học. Nếu còn ở với cha mẹ thì số trợ
cấp chỉ khoảng 1.000 Kroner/tháng. Có khoảng
15-20 ngàn người Việt đang định cư tại Vương quốc
Ðan Mạch. Nhờ chịu khó siêng năng, cầu tiến nên
người Việt được người dân bản xứ rất thương mến
và nể vì. Tại Ðan Mạch có năm ngôi chùa Việt Nam:
Chùa Quảng Hương do Thượng Tọa Thích Giác Thanh
trụ trì và chùa Vạn Hạnh do Ðại Ðức Thích Hạnh Bảo
trụ trì và 3 ngôi chùa khác chưa có trụ trì.
Tinh thần học Phật của bà con Việt Nam tại Ðan Mạch
rất cao. Họ hội nhập phong tục của người bản xứ,
nên rất thành thật và hiền hòa.
Khóa tu học Phật Pháp châu Âu lần thứ 15 được
tổ chức tại Aarhus, thành phố lớn thứ hai của
Ðan Mạch, sau Copenhagen. Tôi lấy máy bay chuyển
tiếp tại Copenhagen, đi Aarhus. Trên đoạn đường
này, tôi ngồi bên cửa sổ và lặng lẽ chiêm ngưỡng
cảnh trí Ðan Mạch bên dưới. Ðan Mạch không giống
Thụy Sĩ chập chùng đồi núi, mà rất bằng phẳng.
Những cánh đồng lúa mì, lúa mạch bạt ngàn vàng rực
dưới ánh nắng mặt trời. Biển xanh bao bọc xung
quanh vương quốc. Vương quốc không phải là một mảnh
lục địa nối liền, mà được tạo dựng bởi các hòn đảo
san sát bên nhau. Ngày nay, khoa học và kinh tế
cho phép người dân Ðan Mạch "nối tấm sơn hà" của
họ bằng những nhịp cầu. Chính nhờ vậy, người ta
có thể lái xe đi khắp lãnh thổ mà chẳng cần phải
xuống phà, sang bắc. Từ phi trường Aarhus, tôi lấy
xe bus đến ga xe lửa cách đó 45 phút. Một chú
trong Ban Tổ Chức đón tôi tại nhà ga với nụ cười
thân thiện. Trên đường lái xe về trại, chú kể
cho tôi nghe đời sống sinh hoạt của dân mình tại
Ðan Mạch. Theo chú thì đời sống nước này rất tốt
đẹp, cộng đồng thương yêu đùm bọc nhau, dù rằng
cũng có những phần tử cá biệt thích tọc mạch bới
móc, hoặc dựng đứng những chuyện thị phi, song
nơi nào chẳng thế! Ngay cả khi Ðức Thế Tôn còn tại
thế, cũng có người chửi rủa, ám hại Ngài nữa mà!
Chú bảo Ðan Mạch một năm được có vài ngày nắng đẹp,
gom cả lại đây để cúng dường cho đạo tràng thanh
tịnh này! Chú đúng là một người Phật tử thuần
thành, nhìn đâu cũng thấy Pháp Phật nhiệm mầu,
bàng bạc hiển hiện trong nắng trong mưa! A Di Ðà
Phật, xin thành tâm tán thán, cảm niệm công đức
của chú.
Khóa học được tổ chức tại ngôi trường trung
học, tiện đường xe cộ, song biệt lập và tĩnh lặng.
Vừa vào văn phòng ghi danh, tôi gặp Ðại Ðức An
Chí, tân trụ trì chùa Khuông Việt Na Uy. Thầy
trò gặp nhau tay bắt mặt mừng, vì Thầy An Chí là
phát ngôn viên chính của GHPGVNTN tại các khóa
Phật Pháp. Hơn nữa, năm trước tôi được cùng Thầy
tham dự thuyết trình tại trại sinh hoạt thanh
thiếu niên Phật Giáo (SHTTNPG) ở Aschaffenburg Ðức
Quốc do Thầy Hạnh Tấn chủ trương. Nên vừa thấy
tôi, Thầy An Chí đã lo cho nơi ăn chốn nghỉ. Thầy
cho biết Thượng Tọa Viện Chủ chùa Khuông Việt
lên ngôi Phương Trượng và nhập thất nên Thầy rất
bận rộn với công việc Phật sự, cho nên năm nay
Thầy không đến tham dự trại SHTTNPG ở Ðức được.
Xin thành kính tri ân Thầy và mong được gặp Thầy
trong trại SHTTNPG năm tới tại Frankfurt.
Nói sao cho hết niềm hân hoan khi được gặp
lại chư vị Tôn Ðức khả kính: Hòa Thượng Viện Chủ
Khánh Anh, Hòa Thượng Trưởng Lão Duy Thức Học Thắng
Hoan, Thượng Tọa Phương Trượng Viên Giác Tự, Thượng
Tọa Phương Trượng Khuông Việt Tự, Thượng Tọa
Nguyên Siêu tới từ Hoa Kỳ, Thượng Tọa Bồ Ðề Tâm
Nhất Chân, Ðại Ðức Trụ Trì Viên Giác Tự Hạnh Tấn,
Ðại Ðức Thích Ðồng Văn, Sư Bà, Sư Cô (nhất là Sư
Cô Diệu Trạm Tổng Trì) và nhiều vị nữa.
Hạnh phúc thay trở về căn nhà Phật Giáo. Bà
con quyến thuộc tâm linh, ai cũng hoan hỷ chắp
tay niệm hồng danh chư Phật chào hỏi, vấn an.
Tôi được các bác các cô trong Ban Trai Soạn lôi
ngay vào bếp (tôi đến trễ, thành ra giờ Quá Ðường
(ăn trưa) vừa hoàn mãn), đãi cho bữa cơm chay hết
sức thanh tịnh và ngon miệng. Ðang lúc đói bụng,
thay vì theo luật người tu học chỉ được ăn một
bát cơm úp vào buổi trưa, tôi ăn ngay bốn chén
cơm, một đĩa xào và một tô canh lớn. Các cô các
bác trong Ban Trai Soạn nhìn tôi ăn như rồng cuốn,
vừa hài lòng vừa ái ngại. Hài lòng vì cơm chay
có ngon thì thực khách mới chiếu cố tận tình như
vậy. Ái ngại vì các bác biết rằng sau khi hết
đói, tôi phải lên Chánh Ðiện sám hối vì tội...
ăn tham!
Nhưng chẳng đợi cho tôi có thời gian sám hối,
cô Huệ Liên từ Anh Quốc, cô Diệu Lý từ Ðức Quốc
và "đạo hữu bất đắc dĩ" Diệu Như (tức Mami yêu
quý của tôi) đã kéo xuống bếp thúc tôi ăn cho
nhanh để còn bàn chuyện làm văn nghệ. Than ôi,
tôi đến khóa học để tu thân, tâm, khẩu, ý chứ có
phải để đóng tuồng đâu! Nhưng mọi người cứ cả
quyết rằng: Phải Tri Hành hợp nhất thì mới là
tu! Dù rằng tôi có cái giọng rổn rảng của ông
Trương Phi cũng không thể cãi lại Tam Nữ Ðồng
Ngôn (ba người đàn bà cùng nói)! Thế là tôi bị/được
chỉ định lập chương trình văn nghệ và làm MC cho
buổi văn nghệ bế giảng cuối khóa cùng với cô Huệ
Liên (biệt hiệu Sen Hồng, tôi không thích màu sắc
nên lâu lâu gọi tắt là cô Sen!)
Qua đó, tôi bị cuốn hút vào thế giới thanh
sắc của đêm văn nghệ. Ngoài các giờ giáo lý nghe
Pháp, công phu, cầu an, chấp tác trong Ban Hành
Ðường... chúng tôi phải liên lạc với các "nghệ
sĩ" để lên chương trình. Quả thật chưa từng thấy,
năm nay số tham dự viên khoảng 650, hơn 50% là
thanh niên, trong lứa tuổi 16-35. Ðiều cần biết
đến, thanh niên Phật Tử Việt Nam, thuộc thế hệ
thứ hai, thứ ba... tham gia các khóa Huân Tu, phần
đông rất thành công trên đường học vấn, sự nghiệp
thế tục. Không hiếm các Bác sĩ, Tiến sĩ, Kỹ sư,
Luật sư, Cao học, Cử nhân, Tú tài và các chuyên
viên các ngành dịch vụ, kỹ thuật cao cấp ở các
quốc gia Châu Âu, họ đã tốt nghiệp, hoặc sắp tốt
nghiệp. Nhiều người còn giữ những chức vụ lãnh đạo
trong các công ty, xí nghiệp... Nhưng khi tới với
khóa Phật Pháp, họ cởi bỏ lớp áo thế tục, quên
đi đời sống nghề nghiệp mà xắn tay áo tham gia
các Ban, làm các công việc như vệ sinh, bưng
khay, rửa chén, giữ trật tự... một cách hoan hỷ
và hăng hái. Số lượng thanh niên thọ Bồ Tát Giới
cũng không dưới 50% tổng số Bồ Tát tại gia! Lành
thay, tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại tài cao, chí cả,
hăng say xây dựng sự nghiệp tương lai tại xứ người,
nhưng không vì vậy mà xao lãng đời sống tâm linh,
dấn thân bố thí, trau giồi văn hóa dân tộc, tinh
tấn trong đạo Pháp! Tương lai đất nước dân tộc,
nhìn vào đây đã thấy khởi sắc lắm vậy!
Khoảng 40 tiết mục văn nghệ được ghi danh
đóng góp với rất nhiều đề mục: Ca, vũ, kịch,
ngâm thơ, vọng cổ, hát đối... nhưng vì thời gian
trình diễn chỉ vỏn vẹn 3 tiếng đồng hồ, nên
chúng tôi phải lược bỏ đi phân nửa. Sự chọn lựa
hết sức khó khăn, phải phân đồng đều ra các tiết
mục, các quốc gia, các ban và các lứa tuổi.
Chúng tôi hết sức đau lòng, khi phải gạt bỏ sự
đóng góp quí báu của quý vị ra khỏi chương trình
văn nghệ bế giảng. Hôm nay, tôi ngồi viết lại những
dòng tạp ghi này, xin thành tâm sám hối và xin lỗi
tới quý cô bác, anh chị nào không được sắp xếp
trình diễn trong đêm văn nghệ ấy. Nam mô Hoan Hỷ
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát!
Chúng tôi cũng chân thành tán thán đến công
đức lớn lao của các bác, các cô chú và anh chị
em tại Ðan Mạch. Quý vị lo lắng cho đại chúng thật
chu đáo, từ nơi ăn chốn ở, đêm đến sau giờ chỉ tịnh,
mọi người đã an giấc, thì các anh em trẻ trong
ban trật tự, chia nhau thức thâu đêm để đi tuần
quanh trại, trông coi xe cộ cho học viên không để
cho kẻ xấu đập phá như trường hợp xảy ra trong đầu
khóa học.
Những ngày ở trại, thật tuyệt vời. Ðược
nghe Pháp vi diệu, được trò chuyện tiếp xúc với
các thiện hữu tri thức, được ăn các món chay
thanh tịnh và nhất là tìm thấy sự an lạc tuyệt đối
từ thân tâm.
Ngẫm lại, từ khóa tu học Phật Pháp tại Thụy
Ðiển mùa hạ 2001 đến nay vỏn vẹn 2 năm. Ngày ấy,
tôi may mắn được Thượng Tọa Phương Trượng Viên
Giác khai thị và đánh thức sự kỳ diệu của đời sống
tâm linh, khi tôi đến cầu Ngài chỉ dạy cho những
điểm thắc mắc trong triết học Phật Giáo, để viết
luận án. Thầy Viên Giác là bậc chân tu, nên
chánh khí pháp lực rất mạnh. Tôi vốn là người dạn
dĩ trước đám đông, vì đời sống nghề nghiệp, tôi
tiếp xúc rất thường với những Topmanagers của
các phái đoàn trên thế giới, các chính trị gia
các nước Tây Phương... chưa khi nào tôi tỏ ra
nao núng hay... run, khi phải ăn uống, hội họp,
đàm đạo với họ. Nhưng khi ngồi trước mặt Thầy cầu
Pháp, tôi run bần bật, không nói lên lời. Tôi có
cảm giác Thầy nhìn thấu hết cái tâm thế tục
hoang đàng của tôi. Thầy dạy tôi những điều rất
cơ bản trong các nghi thức tâm linh, nhưng những
lời khai thị đầu tiên ấy như những ánh sáng nhiệm
mầu soi vào nơi tâm thức tối tăm bị bao bọc bởi
ngã mạn, trí thế biện thông, vô minh mà tôi thường
hãnh diện. Từ đó, tôi tìm đến các thiện hữu tri
thức cầu học hỏi với họ, các thiện hữu tri thức
tìm đến tôi để hướng dẫn, chỉ bảo. Bao nhiêu vị
Thầy đã đến cho tôi những bài Pháp nhiệm mầu.
Mùa xuân năm nay, tôi được duyên lành đến hầu
Ðại Lão Hòa Thượng Huyền Quang tại Quảng Ngãi,
dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng những giây phút
được hầu Ngài, quả là phước đức cho tôi. Tôi đến
Thanh Minh Thiền Viện xin được hầu chuyện cùng
Hòa Thượng Quảng... nhưng nhân duyên chưa đủ đành
đứng trước phòng Ngài bái chào và lui bước. Một
duyên phúc lớn lao cho tôi là những giờ tiếp kiến
với Thượng Tọa Tuệ Sỹ tại Tu viện Quảng Hương
Già Lam. Tôi được biết về Ngài rất nhiều qua
sách vở, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ mình lại có
phước phần làm đệ tử của Ngài. Thầy Tuệ Sỹ gầy lắm,
dáng người khắc khổ, đơn sơ, nhưng Thầy có đôi mắt
sáng diệu kỳ và sâu thăm thẳm. Ðôi mắt của trí
tuệ siêu phàm, của ý chí vững chắc như kim cương
bất hoại, của từ bi che chở cả chúng sinh. Tôi đến
hầu Ngài vào buổi sáng tinh sương, Ngài tiếp tôi
trong căn phòng nhỏ được ngăn làm hai của Ngài.
Tôi vừa kính phục, vừa thương cảm ngước mắt nhìn
Thầy, một nhà bác học với tri sở Phật học, Triết
học, Ngôn ngữ học và Thi phú sâu thẳm vô bờ. Giọng
nói của Thầy nhỏ nhẹ, nhưng rất rõ ràng đi sâu
vào lòng người nghe. Qua một tuần trà, tâm tôi bị
Ngài nhiếp phục hoàn toàn, dù không chuẩn bị sẵn,
tôi chợt thấy nhân duyên đến với Tam Bảo bừng
sáng trong lòng, tôi xin Thầy làm lễ quy y cho
ngay tại phòng Thầy. Thầy thắp nhang bàn Phật,
hướng dẫn tôi hành lễ và ban cho tôi Pháp danh
Quảng Diệu. Tôi ngập chìm trong hạnh phúc an lạc.
Thân tâm tôi chấn động mãnh liệt, tôi thấy mình
như hóa thai hoán cốt bước vào cuộc đời khác, từ
nay tôi đã trở thành người con Phật chân chính.
Từ một kẻ hoang đàng phàm phu, tôi chợt thấy được
ý thức phụng sự Tam Bảo và chúng sinh bừng sống
trong lòng. Sau khi đảnh lễ trước bàn thờ Phật,
tôi cung kính đảnh lễ Sư Phụ tam bái. Xin nói
thêm, vì cái tâm ngã mạn của tôi trước đây, tôi
chỉ lạy Phật, lạy chư vị Ðại Bồ Tát và Ông Nội
tôi. Thầy Như Ðiển là vị Thầy đầu tiên tôi tạ lễ
khai thị bằng ba lạy và Thầy Tuệ Sỹ là vị Thầy
thứ hai tôi thành tâm đảnh lễ.
Sau khi quy y với Thầy Tuệ Sỹ, tôi ra Hà Nội
nhìn cảnh Bắc Hà đón xuân. Nhưng trong tâm tôi,
nguồn an lạc vẫn chan hòa giữa chốn chợ đời. Thấy
bao nhiêu cảnh khổ, khiến tâm tôi xao động và
tìm cách giúp đỡ, song sự nhiệm mầu trở thành
người con Phật vẫn cho tôi sự bình an tự tại. Có
lần đứng ngắm cảnh hoàng hôn bên bờ Hồ Tây, tôi
chợt lạc vào cảnh giới tĩnh lặng của thiền định.
Tôi không nghe tiếng người nói, tiếng ồn ào xung
quanh nữa, cơn gió nhẹ thổi tới, cánh hoa Ðào
vương rơi, cánh hoa Mãn Ðình Hồng chợt lay, cánh
hoa Vạn Thọ rì rào rung rẩy, cánh hoa Thược Dược
khiêu khích thách đố, hoa Mai vàng (chắc mới từ
miền Nam chở ra) và nụ Tầm Xuân như dệt nên bức
tranh tuyệt mỹ. Nguồn thơ từ đâu tràn về, tôi sắp
xếp viết được nên bài thơ Thất Ngôn Bát Cú, dâng
lên cúng dường, thay lời cảm tạ Thầy Bổn Sư Tuệ
Sỹ:
Gió nhẹ, mây trôi, hoa vẫn tươi
Trời Tây, ánh sáng rạng ngời ngời
Trúc biếc, Tầm Xuân e ấp nụ
Mai vàng, Ðào thắm rộ nơi nơi
Tâm thiền tuy nhạt, song liễu ngộ
Trí thế dầu thâm, chẳng hiểu đời
Trăm ngàn vạn Pháp, do tâm tạo
Gió nhẹ, mây trôi, hoa vẫn tươi.
Sau cái nhân duyên nhiệm mầu ấy, cánh cửa
Phật Pháp chợt mở ra cho tôi. Tôi có cơ hội được
bao nhiêu thiện hữu tri thức dẫn dắt chỉ bày.
Hôm nay tôi viết xuống đây những hàng chữ tri ân
gửi tới chư vị Tôn Ðức: Hòa Thượng Thắng Hoan,
Hòa Thượng Minh Tâm, Thượng Tọa Như Ðiển, Thượng
Tọa Trí Minh, Sư Phụ Tuệ Sỹ, Ðại Ðức An Chí, Ðại
Ðức Hạnh Tấn, Ðại Ðức Ðồng Văn, Ðại Ðức Hạnh Từ...
xin cảm tạ các Bồ Tát tại gia cô Diệu Ðông, cô
Quy Nguyên, cô Nguyên Ngọc, bác Nguyên Biên, chị
Diệu Lý, anh Thiện Tín... và hai vị Bồ Tát đặc
biệt Diệu Như và Ðức Trí đã nuôi con khôn lớn
nên người, chỉ cho con đường ngay lối thẳng.
Ðêm văn nghệ bế mạc khá thành công, tuy
nhiên vì thiếu nhân lực trong ban văn nghệ nên
có đôi khi sân khấu bị trống ít phút, nên MC Huệ
Liên và Quảng Diệu phải nói dông dài đến tiết mục
kế tiếp được chuẩn bị. Chương trình có nhiều tiết
mục rất độc đáo, các vũ khúc thật tuyệt vời, các
giọng ca thật điêu luyện... Mọi người đều vỗ tay
nhiệt liệt tán thưởng. Tuy nhiên, có ít nhiều sự
việc không thể tránh khỏi sai sót, chúng tôi
chân thành mong chư vị vì tình từ bi của chư Phật
chư Bồ Tát mà hoan hỷ cho.
Năm ngày trôi qua thật nhanh, bao nhiêu kỷ
niệm thân thương còn vương vấn trong lòng, những
gương mặt an lạc, những nụ cười vô ưu, những bài
Pháp trân báu, tôi chưa thể tường trình hết được,
nhưng tôi hứa sẽ trình bày đến quý độc giả trong
các bài kế tiếp.
Ðể kết thúc bài tạp ghi này, tôi viết hai câu
thơ cổ gửi hầu quý vị:
"Thửa khắc tương phùng như nhất mộng
Mộng trung cựu hữu cánh như hà?"
(Giờ khắc tương phùng như giấc mộng
Bạn lòng nay biết ở nơi nao?)
Kính chúc chư vị thân tâm thường an lạc, tinh tấn
và chóng thành Phật Quả.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
|