THIỀN SƯ THÍCH MẬT KHẾ
Thích Tín Nghĩa
Ngài họ Lê, quý danh là Chánh. Quê quán làng
Thần Phù, xã Thủy Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài thọ sanh năm
Giáp Thìn (1904). Năm Quý Sửu (1913), lên chín tuổi, xuất gia đầu Phật với tổ
Giác Tiên, chùa Trúc Lâm, cố đô Huế. Ngài tỏ ra thông minh xuất chúng trước
tuổi. Năm Giáp Tý (1924), được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Từ
Hiếu (Tổ Tâm Tịnh làm Đàn đầu Hòa thượng). Ngài đỗ thủ khoa vào năm 21 tuổi
tròn.
Pháp danh:
Tâm Địa,
Pháp tự:
Mật Khế,
Thuộc
giòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 43.
Sau khi đắc giới, ngài xin với bổn sư ra tổ đình Thiên Hưng để tham cầu thêm
giáo lý với Hòa thượng Huệ Pháp. Năm 23 tuổi, ngài xin vào thọ giáo với Hòa
thượng Phước Huệ ở chùa Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Năm 1932, ngài cùng với bổn
sư là tổ Giác Tiên và chư tôn đức Tăng già đứng ra thành lập An Nam Phật Học
hội. Ngài là vị giảng sư đầu tiên của hội. Và, ngài cũng là vị sư trẻ đầu
tiên tại cố đô Huế sớm ý thức đem đời vào đạo và đem đạo vào đời bằng con
đường chấn hưng Phật giáo.
Với tư chất và hạnh nguyện ấy, nên
được tổ Tâm Tịnh (Tổ khai sơn Tây Thiên Di Đà tự) tặng y bát để hành
trì. Năm Quý Dậu (1933), ngài vâng lời sư phụ đứng ra lập trường Tiểu học Phật
giáo tại chùa Vạn Phước và trực tiếp làm Hiệu trưởng.
Năm Giáp Tuất (1934), ngài hợp tác
với Hòa thượng Giác Nhiên (tọa chủ tổ đình Thuyền tôn, đệ nhị Tăng Thống
Giáo Hội PGVN Thống Nhất 1973-1979), mở trường An Nam Phật Học tại Trúc
Lâm. Ngài làm việc với hội trong tư thế là Tổng thư ký.
Các bài giảng của ngài dạy tại
trường Vạn Phước và chùa Từ Quang gồm: Tam quy ngũ
giới, Trạch pháp tu tâm, Thanh văn thừa, Bồ tát thừa, Pháp môn
niệm Phật, …
đều có đăng trong báo Viên Âm.
Năm Ất Hợi (1935), ngài muốn cho
quần chúng thấy sự hưng thịnh của Phật giáo tại miền Trung, nhất là tại tỉnh
nhà và cố đô Huế, ngài đã đi đó đây để vận động giới Tăng sĩ bản tỉnh đem hết
tâm lực ra để cúng dường ngày Đản sanh thật long trọng, thật vĩ đại.
Ngày 10 tháng 05 năm 1935, trong lúc
đại lễ Phật đản đang được cử hành rất trọng thể tại chùa Diệu Đế, thì ngài lại
viên tịch ở Trúc Lâm.
Tổ Giác Tiên không có mặt trong ngày
đại lễ này. Trước khi viên tịch, ngài bảo huynh đệ trong chúng mang bức tượng
Di Đà phóng quang để trước mặt ngài. Ngài ngồi ngay ngắn như nhập định, chấp
tay và niệm: Nam Mô
A Di Đà Phật.
Lúc ấy, tổ Giác Tiên vào đứng bên cạnh
và phú kệ như sau:
Tâm Địa (*) quai hàm pháp tánh viên,
Tây
lai diệu chỉ hiểu Nam thiên,
Hoát
nhiên trực triệt Tào Khê lộ,
Miễn
tại linh bình ngũ thập niên.
Dịch:
Cõi tạm bao hàm pháp giới tánh,
Trời
Nam sáng tỏ ý Tây truyền,
Bỗng
nhiên thấu triệt Tào Khê lộ,
Khỏi
mất công dài năm chục năm.
(*) Tâm Địa là Pháp danh của
ngài. Nguyễn Lang dịch.
Ngài bái nhận phú kệ xong, xin Tổ
được lấy ảnh Di Đà đắp lên mặt và từ từ nhắm mắt thị tịch. Ngài xả thân tứ đại
đúng vào lúc 08 giờ sáng, ngày mồng Tám tháng Tư năm Ất Hợi (tức ngày 20
tháng 05 năm 1935). Hưởng dương trần thế 31 tuổi.
Ngài là vị sư trẻ duy nhất được Giáo
hội xây tháp phụng thờ và lo liệu mọi nghi lễ trong lúc nhục thân của ngài
chưa nhập tháp.
Giáo hội đã tặng câu đối:
*
Khả hạnh giải, chánh đạo bất chung yên, nguyệt san đề xuất, Phật học liên
trường cố đa cô vũ, phông trào vô tận đăng quang tường phúc lãng,
*
Thử nhật tùng tâm, cang phùng khánh tiết, thiên tãi hạ trùng quang Phật nhựt,
hồ nhi lạc quốc thốc tiên đăng.
Câu đối Nôm của thầy Vân Đàm tặng
như sau:
*
Rừng mai đạp
tuyết, cay đắng trải bao phen, cơ hóa độ còn nhiều hy vọng chứa chan, tằm kéo
tơ lòng thêu sử Phật,
* Sàng Trúc
trổ hoa, tỉnh mê trong nửa kiếp, tình tương tri quá nặng, sầu trường man mác,
quyện rơi giọt lụy gọi hồn thiêng.
Ngài ra di giải thoát cho chính
ngài, nhưng An Nam Phật Học hội mất đi một vị tăng trẻ tài cao, học chúng Trúc
Lâm mất đi một hướng đạo sư tận tụy, đồng sự pháp lữ mất đi một bạn hiền vô
giá.
Hằng năm, cứ vào ngày tưởng niệm
ngài, chư Tăng Ni và Giáo hội bản tỉnh đều vào Trúc Lâm thắp nén hương long và
đảnh lễ trước long vị của ngài. Di ảnh cũng như long vị được phụng thờ bên
gian tả của hậu tổ.
Sự ra đi sớm của ngài, theo Giáo sư
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận quyển ba, trang 102 có đoạn nói
như sau:
- “… Có lẻ
giảng sư Mật Khế đã phí sức nhiều quá trong những ngày vận động cho lễ Phật
Đản, một cuộc biểu dương đầu tiên của lực lượng quần chúng Phật giáo trong
phong trào phục hưng. Như ta đã biết, đại lễ này có vua Bảo Đại tham dự, đã
làm cho báo chí trong nước nói lên nhiều lần và câu hỏi về sự cần thiết hay
không cần thiết của một sự phục hưng Phật giáo đã được đặt ra giữa dư luận
quần chúng quảng đại.
… Trước đó
đã vận động vua Bảo Đại chấp nhận vị Hội Trưởng Danh Dự của hội. Từ năm
trước, tức năm 1934, vua Bảo Đại đã ban hành sắc tứ cho các chùa Tường Vân,
Tây Thiên và Trúc Lâm. Chùa Tường Vân nguyên trước đã được sắc tứ rồi, bây
giờ lại được sắc tứ một lẫn nữa, chùa Tây Thiên bây giờ là: “Tây Thiên Di
Đà tự” và chùa Trúc Lâm: “Sắc Tứ Trúc Lâm Đại Thánh tự”,
Đại Thánh Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tông ngày xưa vậy. Đến đây chúng ta
hiểu thêm một phần nữa là: Qua biển sắc mà nhà vua ban cho Trúc Lâm Đại Thánh
tự bây giờ có một phần liên hệ với Trúc Lâm Đại Đầu Đà ở núi Yên Tử (Bắc
Việt) vậy.

|