Những Lời Khuyên Của
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma
Nguyên tác
ALBERT LINK
Bản dịch
PHƯƠNG TÔN

Lời người dịch:
Nhận được tờ báo "lá cải" Bildzeitung, thấy có đăng bản tiếng Đức
của ALBERT LINK về “Những lời khuyên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma”; bài đăng bên
cạnh những bức hình hở hang trắng trợn của các cô gái trẻ đẹp đã không làm tôi
khó chịu, ngạc nhiên, mà lại làm tăng thêm niềm cảm phục lâu nay tôi đã từng
dành cho Ngài. Không có gì ngạc nhiên khi ALBERT LINK , một cây viết người Đức
thường xuyên xuất hiện trên những tạp chí hàng tuần đứng đắn cũng như trên
những tờ nhật báo lớn tại Đức, viết lại nguyên bản bằng tiếng Đức “Những lời
khuyên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma” Không có gì ngạc nhiên khi Ngài chọn tờ báo
Bildzeitung để gửi đăng bài viết của Ngài. Tờ báo này vốn được xem là báo "lá
cải" chỉ dành cho giới thợ thuyền, lao động đọc. Người "trí thức" tại đây
thường ít đọc tờ báo này. Thích thú vì đây mới chính là “kiểu Đạt-Lai
Lạt-Ma”: Khôn ngoan, bình dị, mang đầy tính quần chúng. Còn cách nào khôn
ngoan hơn để xâm nhập sâu rộng vào quần chúng hầu có thể truyền bá những tư
tưởng yêu người bằng cách trực tiếp đi vào giới lao động? Nhưng xin cũng đừng
hiểu lầm, những lời khuyên của Ngài không những chỉ dành cho người dân mà Ngài
còn mạnh dạn khuyên can các vị lãnh đạo chính trị thế giới hiện nay nữa. Không
câu nệ những gò bó được đặt ra, năm ngoái tại thủ đô Berlin, đang khi là khách
danh dự của Đại hội người Thiên Chúa Giáo, Ngài đã bỏ khán đài, xuống ngay
trên đường phố nắm tay ca hát nhảy múa cùng các thanh niên thiếu nữ đến tham
dự đại hội. Kết quả: Ngài được trên 20,000 thanh thiếu niên vỗ tay tán thưởng
như là những ngôi sao thần tượng nhạc Rock của họ. Các phương tiện truyền
thông tại đây đã không ngớt lời ca tụng và đăng tải tin này. Vậy nay bài viết
của Ngài được đăng bên cạnh hình ảnh những cô gái ăn mặc thật hở hang, thì có
chi để làm cho mình khó chịu? (Đọc đến đây biết đâu có người lại la toáng lên,
như thế là nhục mạ vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo?) Câu nệ chi những
chuyện đó, cái chính là làm sao cho người ta dễ đọc để nhận chân ra đâu là lẽ
phải mà thôi. Không ngạc nhiên, khi bài viết của Ngài thật dễ hiểu - dễ đến
nỗi như tôi đọc mà còn hiểu được huống chi ai. Khác với hiện tượng "chưa tu mà
xem như đã hóa thành Phật" của một số người sính chữ hiện nay, hể mở miệng là
"chữ nghĩa Phật Giáo" cứ tuôn tràn như nước chảy, Ngài dùng chữ thật đơn giãn,
viết mà như nói chuyện cùng bạn bè anh em. Ngài không có nhu cầu chứng minh
trình độ tu chứng của mình mà chỉ mong ai đọc cũng có thể hiểu được để sửa
đổi, hầu giúp cho cuộc đời tươi vui hơn, và thế giới nhân ái thêm mà thôi.
I. Dẫn Nhập
"Các bạn hãy ráng lên,
bỏ cho được cái nỗi lo lắng luôn luôn ám ảnh trong tâm " (Dalai Lama
XIV.)
Tên của Ngài có thể tạm
dịch ra là "Đại dương trí tuệ". Với giọng nói chậm nhẹ, với nụ cười hiền
lành ấm áp và với những lời khuyên nhủ mang lại hạnh phúc cho biết bao bạn
hữu, Đức Đa Lai Lạt Ma đã làm cho hàng vạn trái tim xúc động , ngay cả với
những người khó tính nhất.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cao
mộtm70 mang kính cận thị nặng 2 độ, con trai của một người nông dân tại Tây
Tạng sống không quê hương kể từ năm 1959 tại một xóm làng Dharamsala thuộc Ấn,
nay lại là biểu trưng của Phật Giáo và cũng là một trong những nhà văn hiện
được yêu chuộng nhất trên thế giới. Ngài chưa bao giờ biết hút thuốc cũng như
chưa biết một giọt bia rượu nhưng mỗi lần ngài xuất hiện thì hàng vạn trái tim
cũng đã dao động với ngài.
Tại Central Park New York
Ngài đã được 40000 người chào đón như một ngôi sao trong làng nhạc Rock. Trong
năm vừa qua tại thủ đô Berlin (Đức) nhân Đại hội Thiên Chúa Giáo, 20 000 thanh
niên thiếu nữ đã cùng ca múa xem Ngài như là người bạn lớn tuổi. Họ cũng đã
tôn sùng ngài như một Popstar mới.
Ngài đã làm gì để được thế giới yêu thương như thế ?
+ Ngài đã giúp cho chúng ta thêm
can đảm để sống, đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn hiện nay. Theo ngài, dù
là một phật tử hay không, dù giàu có hay nghèo khổ ai ai cũng có một khả năng
như nhau để có được một cuộc sống hạnh phúc. Cái yên tĩnh trong tâm hồn có
được, không lệ thuộc vào mặt vật chất bên ngoài.
+ Ngài là người chủ trương tranh
đấu bất bạo động :"Quyền lực đến từ ngọn súng thì chóng hay chầy cũng phải
biến mất". Cũng không phải vô tình Đức Đạt Lai Lạt Ma lại được giải Nobel Hòa
Bình trong thời gian những biến động chính trị căng thẳng xảy ra tại Đông Đức.
+ Ngài biết rõ những đòi hỏi cần
thiết của thế giới ngày nay :" Hiện chúng ta đang thiếu sự yên tĩnh trong tâm
hồn, thiếu bình yên và thiếu những cảm giác hầu có thể làm cho thế giới này
tươi đẹp hơn."
+ Ngài có thể cười khi gặp khó khăn
cũng như cười lấy chính mình :"Tôi có cái tật là ăn quá nhiều mật ong. Điều
này có thể sinh ra mối nguy là vị Lạt Ma thứ 14 này có thể tái sinh làm một
con ong", đã có lần Ngài tự nhạo báng lấy mình rồi ôm bụng cười ngất.
+ Lo lắng là một trong những điều
Tenzin Gyasto (Tên lúc còn là tu sĩ) đã thoát bỏ được từ lâu. Thỏa mãn trong
nghề nghiệp và trong nghệ thuật giải thoát khỏi "ách nô lệ của đồng tiền". Đức
Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu công việc hàng ngày vào lúc 3g30 sáng, không lương
bỗng. Nhưng ngài cần tiền bạc để làm gì khi nụ cười của Ngài đã là vô giá?
II. Gửi đến những ai
không được hạnh phúc...
Trong những quốc gia kỹ
nghệ tiên tiến, người ta thường gặp những người rất đáng thương. Họ không biết
hạnh phúc là gì. Cho những người này, thiếu thốn vật chất là điều không tưởng.
Họ có tất cả để tạo được một cuộc sống thật thoải mái. Nhưng những người này
lại không vừa lòng với cái số mạng hiện tại của họ. Ghen tương hay bất kỳ một
lý do nào đó cũng có thể làm cho họ không được hạnh phúc. Một số người này cứ
sống trong chờ đợi, một thảm họa sẽ rơi lên đầu của họ, hoặc số người khác lại
cho ngày tận thế chẳng còn bao xa nữa. Những người này chẳng qua tự chuốc cho
mình cái phiền não, vì họ không đủ khả năng để suy nghĩ cho sâu sắc. Một khi
họ nhìn được sự thể dưới một góc độ khác, những nỗi tự hành hạ lấy mình cũng
sẽ nhanh chóng biến mất.
Cũng có nhiều người, đúng
là họ có lý do để đau khổ. Bệnh tật, ở trong hoàn cảnh quá khó khăn, nạn nhân
của thiên tai hay những người bị đối xử bất công. Tuy nhiên những người nay
cũng có cơ hội để thay đổi hoàn cảnh của mình. Được chữa trị cho lành bệnh,
thoát qua cơn nghèo túng bằng cách cố gắng chăm chỉ làm việc. Nếu bị đối xử
bất công thì tìm cách thưa kiện theo đúng nguyên tắc luật pháp đưa ra. Hoàn
cảnh cuộc sống ta có thể thay đổi được miễn là phải có những ý tưởng tươi sáng
và luôn luôn vui vẻ với hiện tại. Đừng chán chường bỏ trôi mọi sự.
Nói chung cái đau khổ
trên cuộc đời này là do chúng ta định đọat. Hạnh phúc hay không cũng do ta.
Khi gặp bệnh tật ngồi than khóc thì bệnh không thể hết. Ta phải làm sao cho
hết bệnh, chạy chữa bác sĩ, luyện tập thân thể, thay đổi cách ăn uống... Hay
nói cách khác là chúng ta thường tự làm cho hòan cảnh thêm tệ đi. Phải tập làm
sao để nhìn cuộc đời dưới một góc cạnh tươi sáng hơn. Khi bị bệnh thì đừng làm
như là chỉ có một mình trên đời này là bị mà thôi mà phải nghĩ là có biết bao
nhiêu người cũng mắc phải như mình. Hoặc chúng ta cũng có thể suy nghĩ ngược
lại. Thí dụ khi tay bị tê liệt, thì ta tự nhủ rằng :"Cánh tay của ta nay đã
không thể phục vụ ta nữa rồi, nhưng chân ta thì vẫn còn vững vàng để nâng đỡ
cơ thể của ta". Nếu khi chân ta không đi nổi nữa thì ta lại tự nói với chính
mình:" Không có chân thì ngồi xe lăng, ta còn có bàn tay để viết lách". Đó là
những cách suy nghĩ thật đơn giản hầu có thể tự an ủi lấy mình.
Bất kể ở trong hoàn cảnh
nào, ta luôn luôn có điều kiện để nhìn thấy sự việc một cách tươi sáng hơn.
Khi mắc bệnh thì hãy tự tìm ra những điều tươi sáng bên cạnh, như hãy nói mặc
dù ta đang bị bệnh nhưng qua đó trong nhà lại thương yêu đùm bọc lẫn nhau,
những suy nghĩ tươi sáng sẽ giúp ta mau lấy lại sức khỏe.
Ngay cả khi ta gặp bệnh
nặng, thời gian chữa trị kéo dài khó khăn, nhưng thế nào ta cũng tìm ra được
một suy luận nào đó để loại bỏ những đau khổ suy nghĩ chán chường. Nếu là một
Phật tử, thì ta hãy tự bảo lấy mình "Nhờ có căn bệnh này mà những hành động
không tốt của ta trong quá khứ được rửa bỏ! Nhờ vào những đau đớn này nay ta
mới hiểu được những đau đớn của người khác !" Hãy nghĩ đến hằng hà vô số người
cũng bị đày đọa như ta mà cầu nguyện cho mình cho chúng sanh sớm tai qua nạn
khỏi. Ngay cả khi không đủ năng lực để suy nghĩ như thế thì nội chuyện biết là
không phải chi mình mà còn vô số người khác cũng bị đau khổ như mình hoặc còn
hơn mình nữa thì ta cũng cảm thấy đỡ khổ tâm hơn.
Nếu là một người theo
Thiên Chúa giáo tin tưởng vào Thượng Đế đã tạo ra cõi trần này, thì hãy tự an
ủi rằng: "Cái đau đớn này không phải do ta muốn, mà chắc chắn rằng phải có một
ý nghĩa nào đó, nên Thượng Đế mới ban phát cho ta". Cho những người không theo
một tín ngưỡng nào, khi gặp nạn, dù có thế nào đi chăng nữa , ta hãy tự nhũ
thầm cái nạn này không phải dành riêng chi cho ta. Ngay cả những ai hoàn toàn
không tin vào bất cứ một điều gì hết, thì khi gặp hoàn cảnh đớn đau, hãy thử
tìm một ánh sáng nào đó để có thể bước ra ải khổ vừa gặp. Khi đó bỗng nhiên ta
lại thấy, cái khổ nạn mà ta gặp phải cũng không gây đau đớn lắm như ta lầm
tưởng.
Có những điều không may,
bỗng nhiên ta lại gặp phải, không thể nào tránh được như là cái chết của một
người thân yêu. Trong những trường hợp như thế thì ta bó tay, không làm chi
hơn được nữa. Nhưng chính cái điều mà ta không thể thay đổi được nữa, thì ta
nên tự nhủ lòng là có buồn khổ nhiều chăng nữa cũng không đem lại chi khác
ngoài việc gia tăng cái đau đớn cho chính ta mà thôi. Đây là điều khuyên nhủ
đặc biệt nhắm vào những người không theo một đức tin nào. Điều quan trọng là
ta nên đi tìm để tìm thấy cái căn nguyên từ đâu mà cái đau khổ này lại đến với
ta hầu có thể tìm cách để chống lại, trong khả năng của mình.
Nói chung chúng ta thường
nghĩ rằng, cái không may nó đến là không phải tự chúng ta tạo nên. Chúng ta
không chịu trách nhiệm về những cái không may này. Ta cứ cho rằng đó là do
người khác hay hoàn cảnh trớ trêu tạo ra cho ta. Riêng tôi, tôi nghĩ điều suy
nghĩ trên không hẳn chính xác hoàn toàn.
Chúng ta cũng hơi giống
như những sinh viên, thi cử bị hỏng nhưng lại không chịu thú nhận là nếu như
ta cố gắng siêng năng hơn một ít nữa thì đã có thể đậu được kỳ thi vừa qua.
Chúng ta giận hờn, chúng ta than thân trách phận hoàn cảnh chung quanh đã gây
ra khổ nạn cho ta. Nhưng thử hỏi hoàn cảnh đau buồn có giảm bớt đi khi ta cứ
nhất mực quy tội như thế?
Ngay cả khi một người
thân yêu qua đời, như cha mẹ của chúng ta, ta cũng nên cố gắng bình tĩnh sáng
suốt mà nhận định rằng bất kỳ một đời sống nào cũng có giới hạn tuổi thọ của
nó. Đời sống nào rồi cũng phải có khi chấm dứt, không sớm thì muộn. Lúc ta còn
nhỏ, các bậc sinh thành, trong khả năng của người, đã hết sức nuôi dưỡng chúng
ta khôn lớn. Giờ đây, cha mẹ chúng ta ra đi không có gì để phải lo lắng, ân
hận. Nghĩ như thế, cái đau buồn lúc mất cha mẹ sẽ giảm được phần nào.
III. Gửi đến những ai
được nhiều hạnh phúc...
Con người ta có rất nhiều
cách để cảm thấy mình hạnh phúc. Có những người bị loạn óc. Họ luôn luôn có
đời sống thật hạnh phúc, đối với họ tất cả là bình thường. Cái hạnh phúc này
không phải là mục đích mà chúng ta muốn bàn tới ngày hôm nay.
Có rất nhiều người cho
rằng họ chỉ cảm thấy sung sướng mãn nguyện khi đời sống vật chất phải thật đầy
đủ dư thừa. Họ đâu biết rằng đó mới chính là cái khổ nạn của họ. Một khi đời
sống vật chất của các bạn này do vì một lý do nào đó mà không còn nữa, khi đó
các bạn lại đau khổ gấp 2 lần người bình thường.
Một số người chỉ tìm thấy
hạnh phúc thật sự khi họ cảm thấy cuộc sống và những việc làm của họ phù hợp
với đạo đức của xã hội đề ra. Đây mới chính là cái hạnh phúc mà chúng ta cần
đến. Cái hạnh phúc này mới ăn sâu mọc rễ trong tâm hồn ta, hạnh phúc này sẽ
tồn tại mãi mãi không lệ thuộc vào những biến động bên ngoài.
Để đạt được một đời sống
có nhiều hạnh phúc bền vững, đầu tiên chúng ta phải nhận ra rằng: Đau buồn,
tai họa là một phần đời sống của chúng ta. Nghe qua điều quả quyết như trên,
đầu tiên ta cảm thấy thật chán nản. Về lâu về dài, khi chấp nhận như thế ta
mới thấy đời sống của chúng ta thật nhẹ nhàng, dễ dàng bước qua được những khổ
ải phải gặp.
Khi gặp khó khăn ta có
dùng ma túy để quên đi buồn phiền đi chăng nữa thì chẳng qua cũng chỉ trong
nhất thời, sau đó đâu lại hoàn đấy. Điều quan trọng là phải nhìn thẳng vào vấn
đề để thử tìm ra được từ đâu mà phiền não này lại đến với mình. Phải chấp nhận
không ai trên đời này lại có thể hoàn toàn vui thú, không bệnh tật, không gặp
hoạn nạn khi đó ta sẽ dễ dàng chấp nhận đau buồn đến với chúng ta. Không buồn
phiền, bận tâm than vãn, đặc biệt là ta không cần phải so sánh để ganh tỵ cùng
ai. Chính lúc đó chúng ta sẽ có được cái hạnh phúc chân chính của cuộc đời
này.
IV. Gửi đến những ai chuyên rụt rè
nhút nhác
Thỉnh thoảng chúng ta lại
có vẻ rụt rè trước mặt một người lạ nào đó. Từ ngại ngùng ban đầu, ta lại lại
đâm ra vẻ lạnh lùng. Dần dần thành một thói quen. Đây là một hành động không
đúng, vì chúng ta không vì một lý do gì lại phải sợ hãi khi tiếp xúc với người
khác. Nếu như ta nhận rõ, ai ai cũng là con người như mình mà thôi. Họ cũng có
những khát vọng, những đòi hỏi, những nhu cầu như mình, thì ta sẽ dễ dàng bước
qua bức màn băng tuyết lạnh lẽo để nói chuyện cùng người. Đây cũng là cách mà
chính tôi cũng hay dùng đến.
Khi tôi gặp một người
chưa quen, tôi thầm nhủ với chính mình, họ là con người như mình, cũng đi tìm
cái hạnh phúc và cố tránh cho được cái khổ đau. Bất kể họ bao nhiêu tuổi, bất
kể địa vị giàu sang thấp hèn, bất kể màu da ngôn ngữ, trên căn bản đó họ hoàn
toàn không khác gì tôi. Khi tôi đã nhủ lòng được như thế rồi, rất nhanh chóng
tôi mở lòng ra đón họ như một người trong gia đình. Bao nhiêu cái ngại ngùng,
sợ hãi, biến mất khi nào không hay.
Rụt rè nhút nhát đến từ
việc thiếu tự tin và từ việc cứ bám chặt lấy những hình thức bên ngoài và
những tục lệ của xã hội chung quanh mà ra. Chúng ta là tù nhân của những
hình ảnh mà người khác muốn tạo cho mình. Đây là một hành động giả tạo
không thật với chính mình. Nếu ta không ráng mà tự bỏ thì nó bám theo ta suốt
cuộc đời. Đừng sợ hãi mà cứ sống thật với chính mình.
Tôi còn nhớ hồi còn bé
trong một buổi lễ Phật thật dài, tôi đã không ngần ngại thưa với Thầy của tôi
xin được đi ra khỏi buổi lể để nghĩ ngơi một đôi phút. Đúng ra, nếu theo cương
vị, thì tôi nên làm gương cho người khác mà ráng đợi cho đến giờ giải lao kế
tiếp.
Chúng ta cũng thường rụt
rè vì muốn tự bảo vệ lấy mình. Đây là điều thật nghịch lý, cứ càng muốn bảo vệ
lấy mình thì chúng ta lại càng mất tự tin rồi cứ thế lại càng rụt rè thêm.
Ngược lại khi chúng ta mở rộng lòng đón nhận người khác, lòng tự tin sẽ tăng
lên. Ta sẽ dễ dàng tỏ lộ tình yêu của chúng ta đối với người, sẽ cho họ thấy
tấm lòng đồng thông cảm của chúng ta.
V. Gửi đến những ai
chuyên ganh tỵ
Ghen ghét và đố kỵ làm
cho chúng ta trở nên đau khổ bực dọc. Chúng kềm hãm sự phát triển về tình cảm
tinh thần của chúng ta. Nếu chỉ vì ghen tức mà trở nên hung dữ thì không những
ta tự hại mình mà lại còn hại người nữa.
Ghen ghét đố kỵ người
khác, nói chung, là một điều vô lý. Dù ta có ghen tức với người thế nào đi
chăng nữa thì ta cũng không ngăn cản họ bớt giàu có hơn hoặc làm cho họ giảm
mất những tánh tốt đi. Có chăng nó chỉ làm cho ta thêm đau khổ mà thôi. Ngoài
ra thử hỏi có gì đê hèn hơn, khi vì ganh ghét mà ta cố phá những thành
công và giàu sang của người khác. Bảo đảm, không cần phải nghi ngờ gì
hết, không chóng thì chầy cái đê hèn sẽ quật ngược mà hại lấy ta.
Ghen ghét đố kỵ vì một lý
do nào đi chăng nữa cũng là điều sai trái. Xã hội ngày nay được sung túc là do
liên quan đến nhiều người nhiều yếu tố khác nhau. Một khi có đôi ba người
trong xã hội thành công thì đó chính là lợi tức của toàn xã hội gặt hái được,
và suy cho cùng thì thành công của họ cũng đem lại lợi tức cho mỗi người chúng
ta. Một khi ta gặp được những người thành công trong xã hội thì ta phải nhận
định rõ ràng, cái thành công của họ rồi cũng gây tác dụng tốt lên cho chính
ta. Như thế mà hãy vui với người, thay vì cứ lấy đó mà giận dữ để tự hành thân
mình.
Lẽ thường, một khi yêu ai
thì ta vui với sự thành công của họ. Nhưng đúng hơn mà nói thì chúng ta cũng
nên vui với những người không quen biết, không đem lại lợi lộc trưc tiếp cho
mình. Một khi những người này thành công thì xã hội chung cũng sẽ được hưởng
một phần nào đó. Càng nhiều người thành công thì xã hội càng tiến bộ thêm. Cái
thành công này dĩ nhiên là phải có thành công đạo đức đi kèm. Nếu chỉ nghĩ đến
riêng tư thì một mình chúng ta không bao giờ có thể đem lại cơm no áo ấm và
cuộc sống hạnh phúc cho toàn xã hội được. Xã hội muốn tiến bộ thì cần phải có
một số đông người tài giỏi và chịu khó làm việc.
Nhưng ngay cả trường hợp
là chúng ta biết rõ có người giàu có và thông minh hơn mình, họ chỉ chăm lo
cho cuộc sống riêng tư của họ mà xã hội không hưởng được gì hết. Thử hỏi, có
lợi chi cho chúng ta không, một khi chúng ta cứ quay cuồng ganh tỵ cùng họ?
Tại sao người khác lại không được có cái mà chính chúng ta cũng mong ước?
Tôi dành nhiều cảm thông
cho việc ghen tuông hơn là ganh tỵ - Mặc dù đây cũng là một cảm giác không
tốt. Cảm giác ta nhận được khi bị người bạn đồng hành lợi dụng lòng tin tưởng
của mình. Thí dụ, hai người thương yêu nhau thật sự rồi đi đến quyết định
chung sống cùng nhau. Họ hiểu nhau và hoàn toàn đặt tin tưởng cho nhau, họ
sinh con rồi quyết xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một ngày nào đó, một
trong hai người lại đi yêu người khác. Đây là điều dễ hiểu, nếu như người kia
không cảm thấy hạnh phúc về điều này. Trong trường hợp này, ghen tuông cũng từ
đó mà ra.
Có người kể cho tôi nghe
câu chuyện: Sau khi cưới nhau, anh ta ngày càng cảm thấy khoảng cách giữa hai
vợ chồng càng gần lại, lần hồi họ biết và hiểu về nhau quá nhiều. Anh ta cảm
thấy sợ hãi khi nghĩ đến một ngày nào đó, họ biết về nhau hết thảy. Từ đó giữa
hai vợ chồng sinh ra tình trạng căng thẳng cùng nhau, cho đến ngày vợ anh bỏ
đi thương một người đàn ông khác khác. Phản ứng của anh ta làm tôi ngạc nhiên
hết sức. Một khi ta sống chung thì dĩ nhiên phải gần gũi nhau hơn. Càng gần
nhau thì người ta lại càng có nhu cầu tìm hiểu về nhau. Khi đó ta lại càng nên
ít giữ bí mật về nhau. Có gì dễ chịu hơn khi ta có ai đó để có thể đặt hết
lòng tin vào? Có gì nghịch lý hơn khi quyết định cưới nhau mà lại không tin
nhau? Một khi ngay từ ban đầu ta không đặt lòng tin vào người bạn đời thì thật
là điều dễ suy luận khi người này đi tìm một nơi khác để đặt lòng tin vào đó,
cái mà ở nhà họ không tìm thấy.
VI. Gửi đến những ai
đang cảm thấy cô đơn
Dân số trên quả địa cầu
nay đã hơn 6,3 tỷ người - nhiều như chưa bao giờ từng có. Và cứ mỗi giây đồng
hồ lại có 3 trẻ con được sinh ra đời. Nhưng, cứ càng nhiều, cứ phải chung đụng
sát với nhau, thì con người lại càng cách xa nhau hơn. Nỗi cô đơn hiện đang
bám gót cho hàng triệu người. Tại sao lại như vậy? Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm thấy
câu trả lời và con đường trở lại hầu có thể sống chung cùng nhau.
Tôi đã từng đọc kết quả
của một cuộc thăm dò cho thấy phần lớn đang chịu cảnh cô đơn. Một phần tư số
người đã trưởng thành thú nhận, trong vòng 2 tuần lễ trước khi họ được thăm dò
phỏng vấn, họ đang trãi qua thời gian thật buồn tẻ một mình. Điều khó hiểu này
xem ra ngày càng bành trướng mạnh mẽ. Hàng ngàn người qua lại trong các thành
phố, nhưng không một ai lại dành cho nhau một ánh mắt. Mà nếu khi có ngước mắt
thấy nhau thì cũng chẳng thèm tặng nhau một nụ cười nhỏ. Họ làm như "bận lắm,
có hẹn, không có thì giờ". Trong xe lửa thì ngồi cạnh nhau hàng tiếng đồng hồ
mà lại không một lần mở môi cùng nhau. Đúng là điều quái lạ?
Tôi nghĩ, tình trạng cô
đơn này có thể đến từ hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất, là hiện nay chúng
ta quá đông đảo. Thuở xưa, lúc thế giới này vẫn còn vắng vẻ thì chúng ta hình
như là bị bắt buộc phải xích lại để sống cùng nhau. Làng xóm xem nhau như
người trong gia đình, ai ai cũng biết nhau. Do điều kiện sống còn, nhu cầu
phải giúp đỡ lẫn nhau xem ra cần thiết hơn so với thời buổi bây giờ. Ngày nay
tại các làng quê mọi người vẫn còn quen biết nhau, họ cho nhau mượn dụng cụ,
máy móc và cùng chung nhau thực hiện những việc nặng nhọc. Xưa kia người dân
quê tụ họp gặp gỡ nhau thường xuyên hơn. Họ cùng nhau đi lễ chùa, đi cầu
nguyện chung cùng nhau ở nhà thờ. Vào những dịp như vậy, người ta có nhiều cơ
hội để chuyện trò cùng nhau hơn.
Nay thì thế giới đang đầy
dân. Hàng triệu người chen lấn nhau trong các thành phố lớn. Qua ánh mắt của
họ ta có cảm tưởng như là họ chỉ sống để mà làm việc cho có tiền. Mọi người
xem ra chỉ còn biết sống và giành giật cho mình. Máy móc tân kỳ hiện nay cũng
giúp cho chúng ta có cảm tưởng là chúng ta có thể sống tự lập, và chúng ta có
cảm tưởng (xin nhấn mạnh đây là điều sai lầm lớn) là sự hiện diện của người
khác là hoàn toàn không cần thiết cho mình. Tình trạng này giúp cho chúng ta
phát triển tính thờ ơ lạnh lùng, rồi từ đó tự mình đâm ra cảm thấy cô đơn .
Nguyên nhân thứ nhì tạo
cho chúng ta có cảm tưởng cô độc, theo quan sát của tôi, chẳng qua là trong xã
hội tiến hóa như ngày nay mọi người có quá nhiều việc phải làm. Chỉ cần chú ý
đến ai- ngay cả chỉ cần thăm hỏi một câu: "Có khỏe không?" - Chúng ta đã có
cảm tưởng là vừa đánh mất một vài giây đồng hồ quý giá trong đời. Sau công
việc ta lao đầu ngay lập tức vào tờ nhật báo: "Ngày hôm nay có chi lạ không?".
Thảo luận, chuyện trò cùng bạn bè xem là mất thời gian, vô bổ.
Thường ta có nhiều người
quen trong phố. Điều không tránh khỏi là chúng ta phải chào nhau rồi cùng trò
chuyện cùng nhau, thỉnh thoảng chuyện trò như vậy cũng tạo nên chuyện bực
mình. Dần dần ta tránh gặp gỡ giao thiệp cùng nhau, rồi mỗi khi có ai nói chi
đó thì ta lại phán cho họ một tiếng là muốn xâm nhập vào đời tư của mình.
Tất cả những điều trên
làm cho xã hội này ngày càng đánh mất tính người và cuộc sống này ngày càng
như là cỗ máy vô tri. Buổi sáng thức dậy ta lo đi làm việc, chiều bãi sở thì
ta lại lao mình vào trong một hàng quán nào đó để tìm thú giải trí để rồi trở
về nhà thật trễ, ngủ được đôi ba tiếng đồng hồ. Sáng thức giấc, còn ngái ngủ
ta lại lao đầu vào công việc. Không phải là một số lớn người dân thành thị
đang có lối sống như vậy? Một khi ta đã trở thành một bộ phận nhỏ trong cỗ máy
vô tri này thì chúng ta phải, dù muốn hay không, chạy theo cùng. Đến một lúc
nào đó, ta không còn chịu đựng nỗi cảnh máy móc này nữa, thì khi đó ta lại
chạy trốn vào cảnh thờ ơ lạnh lùng.
Một khi tôi sống lẫn lộn
vào cùng người dân trong một thành phố lớn - Tôi tin chắc, rồi tôi cũng sẽ có
một phần nhỏ giống như họ...Vâng, khi đó tôi không có sự chọn lựa nào khác.
Rồi tôi cũng sẽ đi tìm giải trí trong những quán nước có ánh đèn mờ ảo, đi về
nhà thật khuya rồi sang ngày mới thì lại "mắt nhắm mắt mở" đi làm việc. Sau
một thời gian rồi tôi cũng sẽ quen và xem đó là chuyện bình thường.
Buổi chiều tối, bạn đừng
đi tìm nhiều giải trí hoang đàng quá. Sau giờ tan sở, bạn hãy đi ngay về nhà.
Trong sự yên tĩnh, ăn một miếng cơm, uống một tách trà hay chén nước gì đó,
đọc một cuốn sách, hãy quên đi chuyện trong sở làm rồi nhẹ nhàng đi vào giấc
ngủ. Buổi sáng hãy dậy thật sớm, nếu như bạn đi làm việc với một tinh thần
tươi sáng và vui vẻ thì tôi nghĩ bạn sẽ thấy cuộc đời này có nhiều thú vị.
Ai trong chúng ta cũng
hiểu, cảm giác cô đơn không mang lại lợi ích chi mà lại còn khó chịu nữa.
Chúng ta phải đồng lòng chống lại chúng. Nhưng khó thay, có rất nhiều nguyên
nhân tạo ra cảm giác cô đơn này, nên ta lại phải càng sớm tìm hiểu để vượt qua
khổ ải này. Gia đình là những tế bào căn bản của xã hội này, phải là nơi cho
ta niềm hạnh phúc, là nơi cho ta tình yêu và sự đùm bọc trìu mến. Ngoài gia
đình, trường học còn là nơi mà trẻ nhỏ được nuôi dưỡng lớn lên, phải là nơi
giúp cho trẻ được cảm giác thân tình ấm cúng. Có thế , khi lớn lên trẻ mới trở
thành một nhân tố mang lại tình người cho xã hội. Có thế, khi trẻ lớn lên mới
không cảm thấy sợ người lạ, mới sẵn sàng trò chuyện cùng người khác. Có thế,
thì những trẻ này lớn lên mới đóng góp tạo nên bầu không khí cởi mở nhằm làm
giảm bớt những cảm giác cô đơn.
VII. Gửi đến những
chính trị gia
Bất kỳ một xã hội nào
cũng có những chính trị gia phù hợp để sinh hoạt cùng nhân dân. Đức Đa Lai Lạt
Ma đã nhận ra, nếu như một xã hội chỉ nghĩ đến tiền bạc và quyền lực thì cũng
không có gì làm lạ là xã hội này đã nảy sinh ra số chính trị gia tham nhũng
thối nát.
Thói thường các nhà làm
chính trị thì lại hay hứa hẹn hầu kiếm phiếu của cử tri. "Các ông bà sẽ thấy,
tôi sẽ làm cái này, tôi sẽ thực hiện cái nọ". Theo ý tôi, nếu như các ông bà
chính trị gia này muốn được người dân xem trọng, tín nể thì họ nên thành thật,
họ chỉ cần chứng minh bằng hành động thì ai ai cũng kính nể yêu thương họ.
Nếu đã một lần hứa mà
không thực hiện được thi hãy đừng lấy làm lạ khi người dân tỏ ý khinh bỉ mình.
Thành thật là một cá tính căn bản quan trọng. Trong giai đoạn hiện nay, lúc mà
lực lượng thông tin quá mạnh, họ sẵn sàng phơi bày những hành động của những
nhân vật quan trọng trong chính trường ra trước công luận, thì không gì tốt
hơn hết cho nhóm người chuyên làm chính trị này là phải thành thật- thành thật
với chính mình và hãy thành thật với cử tri-
Một khi ta đã chứng tỏ lòng thành
của mình, thì tất cả những người thích thú với đường lối chủ trương của chúng
ta đưa ra, sẽ ủng hộ rồi góp tay giúp sức hết lòng cùng chúng ta.
Một khi ta chỉ hứa và hứa
nhưng đến kỳ bầu cử kế tiếp, những lời hứa hẹn của ta không thể thực hiện được
thì khi đó cái giá mà chúng ta phải trả mới thật là đắt: Cử tri không còn tin
ta nữa. Những hành động hứa hẹn vu vơ cho có như vậy không những là thiếu đạo
đức mà còn được xem là ngu xuẩn. Tại sao ta lại phải cố gắng thật nhiều để làm
gì một khi ta lại không lọt được qua cuộc bầu cử kế tiếp?
Khi đã đạt được quyền lực
trong tay bạn phải suy nghĩ thật chính xác, không những về những gì bạn thực
hiện, mà ngay cả cho những tư duy của bạn. Khi bạn là ông bà bộ trưởng, là vị
Tổng Thống hoặc là vị lãnh tụ đầy quyền lực, bạn sẽ được mọi phía đón chào,
suy tôn. Bạn là người có nhiều ảnh hưởng quan trọng, chính tại vị trí đó bạn
phải đặc biệt chú ý đến những tư tưởng và mục tiêu của bạn, nếu không sợ rằng
bạn gặp phải mối nguy là đánh mất ra khỏi tầm mắt sứ mạng cao cả mà người dân
giao phó cho bạn. Thật là dễ hiểu: Cứ có càng nhiều người bảo vệ thân mạng cho
mình, thì mình lại càng phải tự bảo vệ canh chừng tư duy của mình.
Có rất nhiều người, trước
khi được bầu vào thì họ có nhiều tư tưởng sáng tạo trong sáng, mong được phục
vụ người dân. Nhưng đến khi được khoác cho chức vụ quan trọng nào đó thì họ
lại tự thỏa mãn với chính mình và quên đi những mục tiêu mà mình đã từng tự đề
ra. Họ tự xem mình là người tốt, là người chuyên chăm lo và bảo vệ người dân.
Họ cho rằng , đã phục vụ nhân dân tốt đẹp, nên dần dần họ tự cho mình cái
quyền được hưởng lại những gì mà họ nghĩ là họ có quyền được hưởng, bất kể
hậu quả. Đây chính là những người đang dần bước vào hàng tham nhũng.
Một khi chúng ta bắt đầu
có quyền lực và ảnh hưởng, chúng ta phải cẩn thận gấp hai lần như thường lệ.
Ngày nay người dân đã mất
dần lòng tin dành cho các chính trị gia. Đây là điều đáng buồn. Rất nhiều
người lại cho rằng chính trị là "lối làm ăn dơ bẩn". Sự thật thì chính trị
không có gì gọi là dơ bẩn. Chẳng qua, con người đã làm cho nó dơ bẩn đi mà
thôi. Cũng giống như ta không thể kết luận hàm hồ là một tôn giáo nào đó, ngay
từ bản thân của nó là xấu xa, chẳng qua là thỉnh thoảng cũng có những tín đồ
lợi dụng để làm mất lòng tin của người ta dành cho tôn giáo đó mà thôi.
Chính trị chỉ bắt
đầu trở nên dơ bẩn khi nhà chính trị gia bắt đầu có những hành động thiếu đạo
đức. Điều này gây ảnh hưởng không đẹp cho chúng ta, vì rằng các chính
trị gia được xem là khuôn mẫu cho người dân, là những gì không thể thiếu được.
Nhất là trong thế giới dân chủ, dứt khoát là chúng ta cần có một số lớn đảng
phái, một vài đảng trong số này thì lên nắm chính quyền và một vài đảng khác
thì đi vào con đường đối lập - Và do đó chúng ta cần có những chính trị gia và
những đảng phái chính trị được chúng ta tôn trọng.
Để giảm bớt trách nhiệm
cho các chính trị gia, là người dân chúng ta không được quên rằng: Xã hội tạo
nên những người làm chính trị. Một xã hội chỉ nghĩ đến vật chất và quyền lực,
không lo lắng cho đạo đức tâm hồn thì cũng đừng lạ khi lại có quá nhiều chính
trị gia xấu xa hư đốn. Khi đó ta cũng đừng xô đẩy trách nhiệm đến cho một mình
họ.
PHƯƠNG TÔN
dịch

|