Những Tiếng "Meo"
phỏng theo Taisen Deshimaru
& lời bình của Nguyên Si
Ngày xưa, có một gã samourai
(sa-mu-rai) đi câu bên bờ suối, câu mãi mới được một con cá. Gã sửa soạn đem
đi nướng ăn ngon lành, thì bỗng nhiên từ trong bụi rậm vụt ra một con mèo,
cuỗm lấy cá, chạy đi. Gã nổi xung, tuốt kiếm đuổi theo và chặt con mèo ra làm
hai đoạn. Cơn giận tiêu tan, gã đâm ra ăn năn, hối hận. Bởi vì gã vốn là một
người Phật tử.
Trên con đường về, gã nghe như gió
thổi trong cành lá tiếng "meo". Mỗi bước đi của gã dường như vang lên tiếng
"meo". Những người qua lại trên đường nói chuyện lao xao với những tiếng
"meo". Bạn bè cũng diễu cợt gã bằng tiếng "meo". Ngay cả trong ánh mắt những
đứa con gã cũng phản chiếu tiếng "meo". Mỗi lần chợp mắt là gã mơ thấy "meo".
Tỉnh dậy, chung quanh gã tất cả là "meo". Chính gã cũng trở thành "meo"...
Cuối cùng, mất ăn mất ngủ, gã
samourai thân hình tiều tụy chỉ còn là cái xác không hồn. Gã tìm đến một ngôi
chùa, gặp một vị thiền sư già, và xin ngài giúp đỡ: " Bạch sư phụ, xin sư phụ
cứu vớt con... Con không thể nào chịu đựng được nữa..."
Nghe kể lại sự tình xong, vị thiền sư
thở dài, cau mày quở trách: "Làm sao một võ sĩ như ngươi có thể hèn mạt đến
như vậy được? Nếu không thắng được những tiếng "meo" kia, thì ngươi chỉ còn có
một cách là tự sát. Không còn con đường nào khác hơn, là tự làm hara-kiri,
ngay bây giờ và tại đây! Nhưng vì lòng từ bi, ta sẽ không để ngươi đau đớn,
bằng cách chém phăng đầu ngay, sau khi ngươi bắt đầu tự mổ bụng."
Gã cúi đầu lạy tạ, tuy trong lòng vô
cùng kinh sợ cái chết. Sau khi sửa soạn nghi lễ xong, gã ngồi xuống, vạch áo,
hai tay cầm chiếc dao hướng vào bụng mình. Vị thiền sư đứng sau gã, giơ cao
kiếm. "Bắt đầu đi !", ông ra lệnh.
Gã samourai từ từ đặt lưỡi dao vào bụng mình, mồ hôi nhỏ giọt. Ngay lúc đó, vị
thiền sư lên tiếng:
-
Còn nghe thấy
tiếng "meo" không?
-
Chao ôi !
Không... Thật lúc này con không nghe thấy gì hết !
-
Vậy, nếu không
còn tiếng "meo" thì không cần phải chết ...
Lời bình của Nguyên Si
Câu chuyện trên đây làm Nguyên Si tôi
tưởng nhớ tới một câu chuyện đã đăng trong báo Gió Nội cách đây khoảng vài ba
chục năm:
"Có một anh chàng bị
bệnh tâm thần, cứ tưởng mình là một hạt thóc, nhìn thấy con gà nào cũng cuống
quít lên chạy trốn. Anh đi chữa bệnh bằng phân tâm học, và sau một thời gian
điều trị, tình trạng đã có vẻ khả quan. Khi chia tay bác sĩ, anh nói với một
giọng quả quyết : "- Bác sĩ cứ yên tâm, tôi khỏi bệnh rồi. Tôi là một con
người, không phải là một hạt thóc". Nhưng chỉ vài phút sau, anh hối hải chạy
trở về phòng mạch, mặt cắt không còn hột máu. "- Con gà... con gà nó đuổi
tôi", anh lắp bắp. "- Sao vậy? người bác sĩ ngạc nhiên. Anh khỏi rồi mà. Anh
đâu phải là hạt thóc". "- Vâng, anh chàng buồn bã trả lời. Vẫn biết tôi không
phải là hạt thóc, nhưng khốn nỗi con gà nó vẫn tưởng tôi là hạt thóc..."
Dĩ nhiên, đây không phải là một câu
chuyện Thiền, mà là một trường hợp bệnh tâm thần có thể xếp loại vào bệnh
hoang tưởng suy diễn (délire d'interprétation), là một loại bệnh khá thông
thường. Ngoài những trường hợp nặng như trên, thì còn biết bao nhiêu là trường
hợp nhẹ, và phải công nhận rằng giữa người bệnh và không bệnh, ranh giới đôi
khi cũng không có gì là rõ rệt...
Nói như vậy thì trong một chừng mực
nào đó, chúng ta đều là những kẻ bị ám. Chúng ta đều vừa là nạn nhân của trí
tưởng tượng của mình, vừa là tác giả của những
vọng tưởng đó. Trong suốt cuộc đời, con người tự tạo nên cho mình bao nhiêu là
vọng tưởng, và chính những vọng tưởng đó là nguồn gốc của tâm bệnh, của khổ
đau. Nhưng, bạn sẽ bẻ lại, nếu không có tưởng tượng, thì làm gì còn câu chuyện
để nói? Làm gì còn con người, làm gì còn khổ đau, làm gì còn cuộc sống? Bởi
vì, nếu "nắng mưa là bệnh của trời", thì có lẽ "tưởng tượng (chứ không hẳn là
tương tư) là bệnh của tôi với người"...
Phải lắm. Ðặc tính của con người là ở
đó, ở cái khả năng tạo dựng nên trong tâm thức của mình những gì không có
thực, những gì hoàn toàn giả tạo. Thế rồi mình cứ khư khư ôm lấy - hay bị ám
ảnh bởi - những điều tưởng tượng đó, và yên trí chúng là sự thực, sống với
chúng như là sự thực. Những "sự thực" tưởng tượng đó không phải chỉ là "tiếng
mèo kêu" hay là "người - hạt thóc" trong câu chuyện. Chúng còn mang muôn hình
vạn trạng: một hình ảnh chợt hiện trong đầu, một câu nói, một điệu nhạc xưa,
một ý nghĩ: "phải chi... giá mà... đáng lẽ... biết đâu... tiếc rằng... ngộ
nhỡ... hay là... ", một lời phê phán, một dự án... Tất cả những gì gây nên dao
động thần trí, bằng cách tạo dựng một tấm màn hỏa mù che đậy thực tại, lôi
cuốn con người trong mê sảng, mộng mị, huyền hoặc, mơ hồ, nhớ thương, tiếc
nuối, lo sợ, nghi vấn, v. v. và v. v...
Muốn thoát ra khỏi sự thống trị gần
như thường trực của vọng tưởng, thì chỉ còn có một cách: sống với thực tại, để
nhận chân thực tại, và như vậy hủy bỏ được khổ đau. Ðó chính là mục đích của
đạo Phật: diệt khổ bằng con đường giác ngộ.
Xét cho cùng, đạo Phật có tám vạn bốn
nghìn pháp môn tựu trung cũng hướng về một điểm, đó là cái
huệ
bằng cách định cái
tâm
của mình. Muốn định được cái tâm, thì phải gạt bỏ mọi dấy động phát xuất từ
bên trong mình, những vọng tưởng, tạp niệm, thành kiến, suy luận, tính toán,
giả thuyết, chấp trước, v.v. tất cả những gì làm vẩn đục nhận thức và che dấu
thực tại. Mục đích là nhận chân được
sự thực "như vậy" (tel
quel, ainsité), cái Chân Như không thể nghĩ bàn, mà chỉ nhận chân được bằng
trực giác, một khi đã đạt được trí huệ tịnh tịch.
Từ xưa tới nay, các vị thiền sư cũng
chỉ dạy một điều cho các thiền sinh: trở về với thực tại, sống trong giây phút
hiện tại. Khi véo mũi, bợp tai, đánh đập, la hét học trò như trong phái Thiền
Lâm Tế, người thầy cũng chỉ tìm cách lôi kéo học trò đang mơ màng vọng tưởng
trở về với thực tại, và giáng lên một đòn tâm lý làm bùng lên giác ngộ.
Ngày nay, các vị thiền sư cũng chỉ
nhắc lại, bằng những từ ngữ mới mẻ hơn ("Thở
vào, ta ý thức ta có mặt ; thở ra, ta mỉm cười với sự sống trong ta và quanh
ta"), những lời dạy của đức Phật Thích
Ca trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthâna) và Niệm Hơi Thở (Ânâpânasati) ("Với tâm hân hoan, tôi thở vào; với tâm hân hoan, tôi thở
ra"). Ðó là tập
chánh niệm, tập chú tâm vào mỗi việc làm của mình.
Cũng như khi xưa thiền sư Huệ Hải dạy
cái dụng công của mình:
"Khi đói thì ăn. Khi mệt thì ngủ". Nhưng
khi ăn chỉ nghĩ tới ăn, khi ngủ chỉ nghĩ tới ngủ, khác với người thường
"khi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm
thứ cần dùng, khi ngủ chẳng chịu ngủ, tính toán cả ngàn chuyện".
Người ta cứ quen tự mình gây nên bao
nhiêu điều phức tạp. Ngay cả sự thật cũng tìm nó ở đâu đâu, như chạy theo
"lông rùa, sừng thỏ". Trong khi đó, sự thật giản dị vô cùng, nó là như vậy và
chỉ là như vậy. Nhưng chính vì giản dị, cho nên mới khó liễu đạt được. Làm sao
cho mây tan, thì trăng mới hiện.
Trong câu chuyện trên, gã samourai
ngày đêm bị ám ảnh bởi tiếng kêu của con mèo mình lỡ giết, cho tới khi lưỡi
dao đè vào bụng, cái chết gần kề, mới thực sự định được cái tâm của mình. Lúc
đó, gã mới chú tâm vào thực tại, mới đạt được
chánh kiến, và lúc bấy giờ dĩ nhiên không còn vọng tưởng, tức là không còn nghe
thấy tiếng mèo kêu! Thói thường, khi người ta vừa thoát khỏi cái chết mới hiểu
được giá trị của cuộc sống...
Này bạn, còn nghe thấy tiếng meo
không?
"Meo" !
(Ô hay... Không biết con mèo đã sống
dậy, hay mình còn vọng tưởng? )
Nguyên Si
|