Công Ước Quốc Tế
Về
Những Quyền Dân Sự và Chính Trị
(1966)
Lời
Mở Ðầu
Các Quốc Gia Hội Viên ký kết Công Ước này:
Xét rằng, chiếu theo những nguyên tắc công
bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và
những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong
đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.
Nhìn nhận rằng những quyền này xuất phát từ
phẩm giá bẩm sinh của con người.
Nhìn nhận rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được hành sử những quyền dân
sự và chính trị cũng như được giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có
thể đạt được nếu hội đủ những điều kiện thuận tiện để con người được hưởng
những quyền dân sự và chính trị cũng như những kinh tế, xã hội và văn hóa.
Xét rằng nghĩa vụ của các quốc gia hội viên
theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên
toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do của con người.
Nhận định rằng con người có nghĩa vụ đối với
những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có trách nhiệm phải phát
huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này,
Ðồng chấp thuận những điều khoản sau đây:
Phần
I
Ðiều
1: 1) Các dân tộc đều có quyền tự
quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và
tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. 2) Ðể đạt
được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên
nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác
quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế.
Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống của người dân không thể bị
tước đoạt. 3) Các quốc gia hội viên ký Công Ước này, kể cả những quốc gia có
trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến
việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc.
Phần
II
Ðiều
2: 1) Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này
cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được ghi trong Công Ước
cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không
phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan
niệm nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản dòng dõi hay bất cứ thân trạng
nào khác. 2) Trong trường hợp những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này
chưa được qui định thành văn trong luật pháp quốc gia, các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước cam kết sẽ ban hành các đạo luật theo thủ tục lập pháp quốc
gia và theo các điều khoản của Công Ước để các quyền này có hiệu lực. 3) Các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước cam kết này: a) Bảo đảm cho các nạn nhân
quyền được đền bù hay được bồi thường thỏa đáng khi những quyền tự do của họ
bị vi phạm, dù rằng người vi phạm là một viên chức chính quyền, b) Bảo đảm
cho nạn nhân được quyền khiếu nại tại các tư pháp, hành chánh hay lập pháp
quốc gia, hay tại các cơ quan có thẩm quyền và phát triển quyền khiếu tố
trước toà án, c) Bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền phải thi hành ngiêm chỉnh
những sự đền bù hay bồi thường đã tuyên bố.
Ðiều
3: Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam
kết bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành sử những quyền dân sự và
chính trị ghi trong Công Ước.
Ðiều
4: 1) Trong khi tuyên bố tình
trạng khẩn trương công cộng vì lý do quốc gia bị đe dọa, các quốc gia hội
viên ký Công Ước này có thể ban hành một số biện pháp đình chỉ thi hành các
nghĩa vụ của quốc gia ấn định trong Công Ước này. Tuy nhiên những biện pháp
này phải có tính cách thật cần thiết vì nhu cầu của tình thế, và không vi
phạm các nghĩa vụ của các quốc gia phát sinh từ luật pháp quốc tế, và cũng
không được dùng để kỳ thị chủng tộc, màu da, nam nữ, tôn giáo, hay nguồn gốc
xã hội. 2) Trong mọi trường hợp những quyền dân sự và chính trị ghi trong
các điều 6, 7, 8 ( khoản 1 và 2) và trong các điều 11, 15, 16, 18 của Công
Ước không thể bị đình chỉ thi hành. 3) Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước
này phải lập tức thông báo qua vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc cho các quốc
gia hội viên kết ước khác hay biết những điều khoản nào trong Công Ước bị
đình chỉ thi hành và vì lý do gì. Ngay sau khi chấm dứt tình trạng khẩn
trương công cộng, họ cũng phải thông báo theo thủ tục nói trên.
Ðiều
5: 1) Không một quốc gia, một phe nhóm hay một
cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoảng trong Công Ước này để cho
phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã
được Công Ước thừa nhận, hoặt để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn
định trong Công Ước. 2) Các quốc gia hội viên kết ước nào đã thừa nhận một
số nhân quyền cơ bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục lệ,
sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền cơ bản đó,
viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa
nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
Phần
III
Ðiều
6: 1) Mọi người đều có quyền sống.
Ðây là một quyền bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị tước
đoạt quyền sống một cách độc đoán. 2) Trong các quốc gia chưa bãi bỏ hình
phạt tử hình, tòa án chỉ được tuyên án tử hình với những tội hình sự nghiêm
trọng nhất chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm pháp và không
trái với những điều khoản của Công Ước này và của Công Ước Ngăn Ngừa và
Trừng Phạt Tội Diệt Chủng. Hình phạt tử hình chỉ có thể được thi hành chiếu
theo một bản án chung thẩm của một tòa án có thẩm quyền. 3) Ðiều luật này
không cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này được giải trừ các
nghĩa vụ ghi trong Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng trong
trường hợp sự hành quyết hay sát nhân cấu thành tội diệt chủng. 4) Các bị
cáo bị tuyên án tử hình có quyền xin ân xá hay ân giảm hình phạt. Lệnh đại
xá, ân xá hay ân giảm hình phạt có thể được ban hành trong mọi trường hợp.
5) Án tử hình không được tuyên án đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi
phạm pháp, và cũng không được thi hành đối với các phụ nữ mang thai. 6) Ðiều
luật này không thể được viện dẫn để trì hoãn hay ngăn cản việc bãi bỏ hình
phạt tử hình tại các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này.
Ðiều
7: Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu
những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con
người. Ðặc biệt là, nếu không có sự ưng thuận tự do của đương sự, không ai
có thể bị dùng vào những cuộc thí nghiệm y học hay khoa học.
Ðiều
8:
1)
Không ai có thể bị bắt làm nô lệ; chế độ nô lệ và mọi hình thức buôn bán nô
lệ đều bị cấm chỉ.
2)
Không ai có thể bị bắt làm nô dịch.
3)
a)
Không ai có thể bị cưỡng bách lao động.
b)
Khoản 3(a) nói trên không được áp dụng tại các quốc gia trong đó luật pháp
cho phép tòa án có thẩm quyền tuyên án khổ sai.
c)
Trong phạm vi khoản này, không được coi là "lao động cưỡng bách”:
i)
Ngoài trường hợp nêu ở khoản (b) trên đây, những công tác hay dịch vụ mà các
tù nhân phải làm trong thời gian bị giam giữ chiếu theo một bản án hợp pháp
của tòa án, hay phải làm trong thời gian được phóng thích có điều kiện.
ii)
Nghĩa vụ quân sự, hay nghĩa vụ quốc gia áp dụng cho những người được luật
pháp cho miễn thi hành nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm.
iii)
Nghĩa vụ cộng đồng trong trường hợp khẩn trương hay thiên tai đe dọa đời
sống hay sự an lạc của cộng đồng.
iv)
Nghĩa vụ dân sự thông thường.
Ðiều
9: 1) Ai cũng có quyền tự do thân
thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán.
Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và
theo những thủ tục luật định. 2) Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì
thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội
trạng bị cáo buộc. 3) Bị cáo bị bắt giữ hay giam cầm về một tội hình sự phải
được dẫn giải không chậm trễ tới một vị thẩm phán (hay một viên chức có thẩm
quyền tư pháp theo luật), để được xét xử trong một thời hạn hợp lý hay được
phóng thích. Theo thông lệ, không nhất thiết phải câu lưu bị cáo trước ngày
tòa xử. Tuy nhiên để bảo đảm sự hiện diện của bị cáo trong phiên xử hay
trong các giai đoạn thẩm vấn, và để thi hành bản án, nếu cần, sự phóng thích
tạm bị cáo đòi hỏi phải có bảo đảm. 4) Những người bị bắt giữ hay giam cầm
đều có quyền yêu cầu tòa án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự
giam giữ, và được phóng thích nếu sự giam giữ được xem là bất hợp pháp. 5)
Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu
tố đòi bồi thường thiệt hại.
Ðiều
10: 1) Những người mất tự do vẫn
phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm. 2) a) Ngoại trừ những
trường hợp đặt biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải được giam giữ cách
biệt với những người đã can án và phải được đối xử theo quy chế những người
không can án. b) Các bị cáo thiếu nhi phải được giam giữ cách biệt với người
lớn và phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất. c) Chế độ lao tù phải đặt
trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ hội cải hóa và hội nhập
vào đời sống xã hội. Các thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt
với người lớn, và phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý
của chúng.
Ðiều
11: không ai có thể bị giam giữ chỉ vì không có
khả năng thi hàng một nghĩa vụ khế ước.
Ðiều
12: 1) Những người cư trú hợp pháp
trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi
cư trú trong lãnh thổ. 2) Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một quốc
gia, kể cả quốc gia của mình. 3) Những quyền tự do ghi trên không thể bị
giới hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự
do của người khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác được thừa
nhận trong Công Ước này. 4) Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương một
cách độc đoán.
Ðiều
13: Ngoại kiều cư trú hợp pháp trong lãnh thổ các
quốc gia hội viên ký kết Công Ước này chỉ có thể bị trục xuất do một quyết
định hợp pháp. Trừ trường hợp có lý cưỡng thúc về an ninh quốc gia, người bị
trục xuất có quyền trình bày lý do để chống lại quyết định trục xuất, và có
quyền nhờ người biện hộ nạp đơn xin tái xét hồ sơ trục xuất tại các cơ quan
hay người đại diện cơ quan có thẩm quyền.
Ðiều
14: 1) Mọi người đều bình đẳng trước tòa án. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập,
vô tư và có thẩm quyền theo luật, để phán xử về những tội trạng hình sự mà
mình bị cáo buộc hay về những quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các vụ
tranh tụng khác. Báo chí và công chúng có thể không được tham dự một phần
hay toàn thể phiên xử, vì nhu cầu đạo lý, trật tự công cộng hay an ninh quốc
gia trong một xã hội dân chủ, hay để bảo vệ đời sống riêng tư của các đương
sự tranh tụng, hay, trong những trường hợp thật cần thiết, khi tòa án quyết
định rằng xét xử công khai sẽ làm thiệt hại quyền lợi của công lý, tuy nhiên
các bản án hình sự và các bản án khác phải được tuyên đọc công khai trước
tòa, ngoại trừ trường hợp để bảo vệ quyền lợi của thiếu nhi hay của gia đình
trong những vụ tranh tụng về hôn nhân hay về việc giám hộ các con.
2) Bị
cáo về các tội hình sự có quyền được suy đoán là vô tội cho đến khi bị chứng
minh là có tội theo luật.
3)
Trong các vụ hình sự, tất cả các bị cáo đều được hưởng đồng đều những bảo
đảm tối thiểu sau đây: a) Ðược tức thì thông báo tội trạng với đầy đủ chi
tiết bằng ngôn ngữ mà họ thông hiểu. b) Quyền có đủ thời gian và phương tiện
để chuẩn bị sự biện hộ và được quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn.
c) Ðược xét xử mau chóng, không diên trì quá đáng. d) Ðược hiện diện trong
phiên xử để tự biện hộ hay nhờ luật sư biện hộ do mình lựa chọn; được thông
báo về quyền này trong trường hợp tự biện hộ; và được quyền có luật sư biện
hộ miễn phí vì nhu cầu công lý nếu bị cáo không có phương tiện mướn luật sư.
e) Ðược đối chất với các nhân chứng buộc tội và được quyền đòi nhân chứng và
chất vấn các nhân chứng gỡ tội cho mình, theo cùng một thủ tục. f) Ðược
quyền có thông dịch viên miễn phí, nếu bị cáo không nói hay không hiểu ngôn
ngữ của tòa. g) Ðược quyền không khai, để khỏi phải tự buộc tội mình, hay
khỏi phải thú nhận tội trạng.
4)
Trong các vụ án thiếu nhi, thủ tục xét xử phải căn cứ vào tuổi tác của các
bị cáo và hướng về mục tiêu cải huấn can phạm.
5) Các
bị cáo bị tuyên phạt có quyền kháng cáo lên tòa trên thủ tục luật định.
6)
Trong trường hợp bị cáo bị tuyên hình phạt chung thẩm và sau này bản án bị
tiêu hủy hay đương sự được ân xá vì có sự kiện mới phát giác cho biết bị cáo
đã bị phạt oan uổng, người bị kết án có quyền đòi bồi thường thiệt hại theo
luật, trừ phi có bằng chứng cho biết, sở dĩ sự kiện mới này không được phát
giác trong thời gian xử án, một phần hay hoàn toàn tại vì bị cáo.
7)
Không ai có thể bị tái thẩm hay bị tuyên phạt một lần nữa về một tội trạng
đã được tòa án phán xử chung thẩm bằng cách tuyên phạt hay tha bổng, chiếu
theo luật pháp và thủ tục hình sự hiện hành.
Ðiều
15: 1) Không ai có thể bị kết án
về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều
ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp
dụng hồi đó; mà cũng không bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt
được áp dụng trong thời gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng
hình phạt khoan hồng hơn chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp. 2)
Ðiều luật này không có tác dụng ngăn cản việc xét xử hay tuyên phạt một bị
cáo vì đã làm hay không làm những hành vi cấu thành tội hình sự chiếu theo
những nguyên tắc luật pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc
gia trong thời gian đương sự phạm pháp.
Ðiều
16: Ai cũng có quyền được công nhận là con người
trước pháp luật bất cứ tại đâu.
Ðiều
17: 1) Không ai có thể bị xâm phạm
trái phép hay độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc
phạm trái phép đến danh dự và thanh danh. 2) Ai cũng có quyền được luật pháp
bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.
Ðiều
18: 1) Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do
lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo
hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ
phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác,
tại nơi công cộng hay tại nhà riêng. 2) Không ai bị cưỡng bách tước đoạt
quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng. 3) Quyền tự do biểu thị tôn
giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an
toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những
quyền tự do căn bản của người khác. 4) Các quốc gia hội viên ký Công Ước này
cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc giáo dục các
con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Ðiều
19: 1) Mọi người đều có quyền giữ
vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. 2) Mọi người đều có quyền tự do
phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và
phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới
hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể
biên giới quốc gia. 3) Việc hành sử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở
khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc
biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a/ Tôn
trọng những quyền tự do và thanh danh của người khác. b/ Bảo vệ an ninh quốc
gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Ðiều
20: 1) Mọi hình thức tuyên truyền,
cổ võ chiến tranh phải bị luật pháp cấm chỉ. 2) Mọi hình thức gieo rắc căm
hờn, xúi giục kỳ thị, hiềm khích, kích thích bạo động giữa các quốc gia hay
các tôn giáo phải bị luật pháp cấm chỉ.
Ðiều
21: Quyền hội họp có tính cách hòa
bình phải được thừa nhận. Việc hành sử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi
luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an
ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo
lý, hay những quyền tự do của người khác.
Ðiều
22: 1) Ai cũng có quyền tự do lập
hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi
của mình. 2) Việc hành sử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì
các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia,
an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những
quyền tự do của người khác. Ðiều luật này không có tác dụng ngăn cấm việc
ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành sử quyền tự do lập hội
của các giới quân nhân và cảnh sát. 3) Ðiều luật này không có hiệu lực cho
phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế năm 1948 về
Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay áp dụng những
đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong
Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế.
Ðiều
23: 1) Gia đình là đơn vị tự nhiên
và căn bản trong xã hội và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ. 2) Thanh
niên nam nữ đến tuổi thành hôn có quyền kết hôn và lập gia đình. 3) Hôn thú
chỉ được thành lập nếu có sự ưng thuận hoàn toàn tự do của những người kết
hôn. 4) Các quốc gia hội viên ký kết công ước này phải ban hành những biện
pháp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm của vợ chồng khi
kết hôn, trong thời gian hôn thú, cũng như khi ly hôn. Trong trườg hợp ly
hôn phải quy định những biện pháp bảo vệ quyền lợi của các con.
Ðiều
24: 1) Không phân biệt chủng tộc,
màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản
hay dòng dõi, các trẻ em, với tư cách vị thành niên, phải được gia đình, xã
hội và quốc gia bảo vệ. 2) Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi sinh, và
được đặt tên họ. 3) Trẻ em có quyền thủ đắc quốc tịch.
Ðiều
25: 1) Không bị kỳ thị (như đã quy
định ở điều 2) và không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và
có cơ hội: a/ Ðược tham gia vào việc điều hành chính quyền, hoặc trực tiếp
hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển chọn. b/ Ðược bầu cử và ứng cử
trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông
đầu phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri. c/ Ðược quyền bình
đẳng tham gia công vụ trong nước.
Ðiều
26: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và
được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương diện này, luật
pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được bảo vệ một
cách bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da, nam nữ,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội,
tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào.
Ðiều
27: Ðối với các cộng đồng thiểu số
về chủng tộc, tôn giáo, hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này
bảo đảm cho các thành phần thiểu số cùng với những người khác trong cộng
đồng của họ được quyền hưởng văn hóa riêng, được truyền giáo và hành đạo
riêng, và được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
|