Tết Nguyên Ðán và Phật Lịch
NGUYỄN PHÚC BỬU TẬP

Nhân ngày Tết Nguyên Đán, mọi gia
đình Á Đông sẽ làm lễ Phật và vui Tết. Ta thử tìm hiểu niên lịch dùng trong
sinh hoạt Phật giáo nguồn gốc ở đâu, thuộc về hệ thống nào, và ngày Tết có
phải là một ngày lễ Phật chăng? Đức Thích Ca khai sáng ra đạo Phật tại Ấn Ðộ
hai nghìn sáu trăm năm trước, và Ấn Ðộ cũng đã có nền văn minh và tôn giáo
hai nghìn năm trước Phật Thích Ca.
Vậy ta có thể xác quyết là không
thể có một niên lịch, hay là nói rộng hơn, là một hệ thống tính thời gian
riêng biệt của đạo Phật. Tìm hiểu niên biểu Phật giáo tức là đi tìm các
thông lệ đã được áp dụng trong các cộng đồng Tăng già ngày xưa về cách thức
để áp dụng thời biểu trong năm để tu hành và tế lễ. Bài này sẽ không bàn đến
các ý niệm triết lý, siêu hình và hướng linh về thời gian và không gian
trong giáo lý nhà Phật.
Văn minh Ấn Ðộ trước thời đức
Phật gọi là văn minh Vệ đà của giống người Arya từ trung bộ châu Âu tràn
xuống đồng bằng sông Indus và sông Ganga; tôn giáo Ấn Ðộ trước là đạo Bà la
môn. Văn minh Vệ đà và tôn giáo Bà la môn dựa trên bốn bộ kinh Vệ đà căn
bản, mà quan trọng nhất là bộ Kinh Rig-Veda. Rig-Veda gồm có, theo lý
thuyết, 1028 bài ca tán tụng sức mạnh của tạo vật như mặt trời, mưa, gió,
sấm sét..., biến các sức mạnh thiên nhiên này thành ra thần linh, và cầu xin
thần linh ban phúc cho giống người Arya đang theo đạo Bà la môn. Ðọc kỹ các
bài ca chúc tụng này, ta tìm lại rõ các nét chính trong tư tưởng, phong tục
và tập quán của giống người Arya này.
Phu nhân Rhys Davids (vợ chồng
giáo sư Rhys Davids được nhìn nhận đã đóng góp rất nhiều trong công trình
khảo cứu văn minh Ấn Ðộ và đạo Phật) đã phân tích kỹ quan niệm về niên lịch
của người Arya Ấn Ðộ. Thời gian được tính bằng ba đơn vị: năm, tháng và
ngày. Trong Rig-Veda quyển I đã thấy ghi rõ cách tính ngày tháng. Mỗi năm
(sam vachara) gồm có 12 tháng (masa), mỗi tháng có 60 đơn vị [ban ngày kể là
một đơn vị; đêm kể là một đơn vị (ratinvida); hai đơn vị góp lại thành một
ngày]. Mỗi năm còn chia ra mùa (utu), và vì thời gian tính theo hai hệ thống
mặt trời (dương lịch) và mặt trăng (âm lịch) bị so le, không theo sát nhau
được, nên đã tính phải có một tháng "nhuận", gọi là "tháng sinh sau" trong
hệ thống âm.
Thời đó, giai cấp Bà la môn ngự
trị đời sống tinh thần và vật chất của dân chúng. Niên lịch liên hệ tới việc
cúng tế không để tiết lộ ra khỏi giai cấp giáo sĩ. Tuy vậy, vì niên lịch Vệ
đà cũng đem dùng trong dân gian, nên nhà Phật chắc chắn đã dựa theo đó mà
thiết kế mọi sinh hoạt trong cộng đồng Tăng già.
Trong số kinh điển khổng lồ của đạo Phật (chỉ nói tới văn hệ Pali), bà Rhys
Davids không tìm được phần nào đặc biệt chuyên chú về niên lịch, và chỉ rút
ra được đây đó vài đoạn nói về niên biểu, đem chắp lại để tìm hiểu ý niệm
thời gian trong đạo Thích Ca. Ðể chứng minh là đức Phật đã áp dụng và có sửa
đổi quan niệm niên lịch Vệ đà, bà Rhys Davids dẫn hai sự kiện. Thứ nhất là
một vị đệ tử thân cận của đức Phật, Kumara Kassapa, trong Trường bộ kinh
(Dighanikaya), đã thuật lại là đức Phật chấp nhận cách phân chia thời gian
áp dụng và giảng giải trong kinh Rig-Veda. Thứ hai là trong Tăng chi bộ kinh
(Anguttaranikaya), bộ kinh quan trọng hàng thứ tư trong năm bộ kinh lớn của
văn hệ Pali, cũng có nhắc lại cách giải thích niên lịch của đức Phật, không
những tính theo mặt trời, mặt trăng mà còn theo các hành tinh. Nét nhận xét
được rõ là niên lịch Phật giáo có khuynh hướng theo âm lịch nặng hơn, chứng
cớ là đức Phật đã dùng thêm ngày trăng tròn (addhamassa) giữa tháng, cắt
tháng ra làm hai đoạn, và như vậy đơn vị thời gian từ ngắn đến dài sẽ là :
ngày, nửa tháng, mùa, năm.
Vào thời kỳ nguyên thủy, đạo Phật
chú trọng nhất là việc tổ chức đời sống Tăng già, và mục đích thiết thực của
niên lịch là để lập thời khóa biểu áp dụng cho Tăng chúng trong cộng đồng.
Ngày chia làm hai đơn vị: sáng và đêm (ratindival), cốt để định thời khắc
hai bữa ăn của người tu sĩ. Nhưng theo quy ước chung áp dụng ngoài đời, hai
đơn vị sáng và đêm phải nhập làm một để gọi là ngày. Phân tích hơn nữa, ngày
sáng chia làm ba đoạn (ta cứ gọi là khắc), và đêm tối chia làm ba canh
(yama). Khi trời âm u thì lấy sao Kim tinh là chuẩn hiệu. Ðêm bắt đầu từ khi
hết thấy mặt trời. Trên thực tế, chỉ trừ thời khắc giữa trưa (đúng ngọ), để
quy định giới hạn bữa ăn của người xuất gia, ý niệm thời gian trong ngày
được áp dụng khá lơi lỏng. Trong các chùa Nguyên thủy, từ xa xưa cho đến bây
giờ, người ta vẫn lấy thời khóa biểu của đức Phật làm mẫu mực. Sáng bắt đầu
ngày mới, đức Phật tắm gội, choàng áo và cầm bình bát đi khất thực; gần trưa
về chia bữa ăn với đệ tử ; buổi chiều ở trong tịnh xá thiền định và làm
việc.
Giờ quan trọng nhất trong ngày là
lúc giữa trưa (ta gọi là ngọ; văn tự Pali majjhanha), được đánh dấu bằng
cách đo ngón tay, bóng ngả về phía hữu một đốt và quay sang phía tả một đốt.
Vì lẽ đó mà ngày có ba khắc: buổi sáng, giờ ngọ, và buổi chiều (aruna,
majjhanha, sayamha). Ðức Phật còn dùng một đơn vị lớn hơn ngày gọi là tuần
(sattaha), mà trước đó, trong kinh Vệ đà không bao giờ nói tới. Sahatta
không có ngĩa là tuần lễ bảy ngày như ta quan niệm ngày nay, mà bất cứ số
lượng bảy ngày nào góp chung lại với nhau trong lịch trình sinh hoạt Tăng
già thời nguyên thủy.
Tháng tính làm hai đơn vị: đơn vị
một bắt đầu từ ngày trăng tròn, đơn vị hai bắt đầu từ ngày không trăng. Lúc
đức Phật còn tại thế, khi cộng đồng Tăng già đã phát triển mạnh trên lưu vực
sông Hằng, hai ngày đầu kỳ bán nguyệt là hai buổi lễ lớn của cộng đồng. Tăng
già sống trong viện hay đi hoạt động ở ngoài đến hai ngày đó phải tựu họp để
đọc bổn Luật Kinh Patimoka (tức là bổn liệt kê 227 điều luật của người xuất
gia; về sau môn phái Ðại thừa tăng lên 250 điều luật, môn phái Tây Tạng 253
điều).
Ðến bây giờ, trong các chùa ở
Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, theo Phật giáo Nguyên thủy thuần túy, luật lệ
này vẫn thông dụng. Trong cộng đồng Tăng già thời nguyên thủy, năm được chia
làm bốn mùa. Ba mùa chánh: mùa nắng (ginshal), mùa mưa (vassa) và mùa gió
(hemanta); mỗi mùa kéo dài bốn tháng. Cuối mùa mưa lấy một tháng, gọi là
tháng Serada làm một mùa tương đương với mùa Thu của ta bây giờ. Tại Ấn Ðộ,
vào mùa serada, "khí trời rất trong sáng nên mặt trời hiện rõ, đừng nhìn lên
trời mà hại mắt" (Trường bộ kinh, Dighanikaya). Dưới thời đức Phật, cách
thức phân chia ba mùa không nhất định, tùy theo hoàn cảnh trong năm, nhưng
nói chung, mùa gió lạnh Hemanta đi trước đầu năm, kế theo là mùa nắng gimha,
và mùa mưa vassa. Vassa kể như là mùa quan trọng nhất vì tu sĩ "vào hạ" lúc
này. Vào hạ là biến cố quan trọng nhất trong năm, trong đời sống người đi
tu, mọi chi tiết đều được định rõ trong Luật Kinh Vinaya. Ðể điều chỉnh thời
gian luân chuyển so le giữa mặt trăng và mặt trời, tháng nhuận thường để vào
đầu mùa mưa vassa và do chính đức Phật quyết định và công bố (về sau, do hệ
thống chỉ đạo của Tăng già).
Trong Luật kinh (Pali tạng) cũng
ghi rõ là đức Phật đến thành Vesali, nằm trên vĩ tuyến 26 (tương đương ở xứ
ta vào vùng trên Cao Bắc Lạng, rất lạnh) sống vào những tuần lễ giá lạnh
nhất trong năm hầu thí nghiệm xem người tu sĩ cần bao nhiêu y phục vào mùa
lạnh, để phán vào Luật kinh. Ngoài các đơn vị tháng, mùa, năm, đức Phật cũng
đã nói đến các đơn vị thời gian dài hơn như thập niên vassa dasa (mười năm),
thế kỷ vassa satam (trăm năm). Vassa satam tượng trưng đời sống của một kiếp
người, như dân gian ta thường nói "trăm năm trong cõi người ta", hay "ba vạn
sáu nghìn ngày". Sau thế kỷ, nhà Phật dùng một đơn vị gọi là Kapa (Anh :
Aeon ; Pháp : eon), chi thiên thiên, vạn vạn niên, một số lượng vĩ đại ngoài
sức đếm. Ví dụ một hôm có người đệ tử hỏi đức Phật là Kapa dài bao nhiêu
năm, Ngài trả lời (luôn luôn đức Phật trả lời bằng tỉ dụ và so sánh): "Nếu
bây giờ ta có một khối núi đá mỗi bề dài bốn trượng, không chỗ nào sứt mẻ.
Và nếu bây giờ cứ mỗi trăm năm có một người cầm tấm vải mềm đến chùi trên
chóp khối đá. Ngọn núi kia sẽ tiêu mòn hết trước khi một Kapa chấm dứt". Ý
đức Phật nói là Kapa chỉ định một thời gian dài vô tận. Một đoạn khác trong
kinh, đức Phật cũng nói là mỗi Kapa có thể tạo ra một đức Phật, hàm ý là
phải khổ công tu học lắm mới thành được chánh quả.
Bây giờ ta trở lại tìm hiểu các chi tiết nhỏ của thời gian dùng trong giáo
lý đức Phật. Ngày chia ra làm đơn vị nhỏ. Trong Tăng chi bộ kinh (đã dẫn) có
đoạn: "Như nước trong nguồn chảy quanh co, lôi kéo tất cả theo giòng, không
bao giờ ngừng một lúc (khana), hoặc một khắc (layo) hoặc một giây (muhutto),
và đấy cũng là đời sống con người". Thầy Huyền Trang sang Ấn Ðộ thỉnh kinh
hồi thế kỷ thứ 7, đã giải thích rõ ràng ý niệm thời gian nhỏ dùng trong đạo
Phật: "Ðơn vị thời gian nhỏ nhất (trong kinh) gọi là t'sana (còn viết là
Kshana) tức “Sát-na”; 120 sát na làm thành một đại sát na (tak-shana); 60
đại sát na làm thành một lafo (lava); 30 lava làm thành một muhurta; năm
muhurta làm thành một kala và sáu kala làm thành một ngày".
Ta mặc nhiên đồng ý là các chi
tiết vừa kể trên ngày nay chỉ còn giá trị lịch sử. Ta thử tìm hiểu các điểm
thiết thực hơn, như ngày đầu tháng, tháng đầu năm... để ăn Tết!
Tháng bắt đầu ngày nào? Như trên
đã nói, Phật lịch thiên về mặt trăng, và trong hai bán nguyệt (một, bắt đầu
từ ngày không trăng; hai, bắt đầu từ ngày trăng tròn), thường vẫn kể bán
nguyệt bắt đầu với đêm trời tối đi trước. Như vậy là tháng bắt đầu với ngày
không trăng, tương đương với ngày mồng một âm lịch của chúng ta vẫn tính
thời bây giờ.
Câu hỏi thứ hai là năm bắt đầu
với tháng nào? Ý niệm tháng là một phần cấu tạo của mùa thường được nhắc
trong kinh, như "tháng đầu mùa lạnh", "tháng cuối mùa mưa". Cũng có chỗ
trong kinh nhắc đến tên tháng như tháng Asahi, tháng Kattika, nhưng không hề
chỉ định một tháng đầu năm. Bà Rhys Davids dẫn chứng một đoạn kinh
Samannaphala Sutta nói về vua Ajattasatu, đương thời với đức Phật, và giải
thích là ngày đó, người ta dùng tháng Savana (giữa tháng 6 qua giữa tháng 7
dương lịch ngày nay) làm tháng đầu năm. Nhiều cuộc biên khảo mới sau này
chứng minh là bà Rhys Davids nhầm. Trong một bổn Luận Kinh Aghidhanapitaka
chép vào thế kỷ thứ 13 tại Tích Lan, người ta tìm được bổn danh sách hoàn
hảo đủ 12 tháng niên lịch Phật. Năm chia làm 12 tháng, bắt đầu là tháng
Citta (giữa tháng 2 qua đến giữa tháng 3), và tháng quen thuộc với chúng ta
là tháng Visakha (giữa tháng 3 tới giữa tháng 4). Ðại hội Kiết tập Phật giáo
thế giới lần thứ sáu họp tại Miến Ðiện năm 1954 lấy ngày trăng tròn tháng
Visakha làm ngày lễ long trọng nhất của đạo Phật, kỷ niệm vào một ngày ba lễ
lớn: Thích Ca đản sanh, Thích Ca thành đạo và Thích Ca nhập niết bàn. Ngày
nay hầu hết các cộng đồng Phật giáo trên trái đất đều thuận hiệp với quyết
định trên.
Như vậy, ta buộc phải nhìn nhận
là trong thời kỳ nguyên thủy, đạo Phật chỉ chú trọng vào lề lối tu hành, và
không để ý tới những điều trong đời sống như hội hè đình đám. Các tục lệ
truyền thống (đối với chúng ta ngày nay) như đi chùa hái lộc, như lễ Phật
đêm Giao thừa và ngày Tết, hầu như không có ý nghĩa thích nghi với giáo lý.
Có thể như vậy được chăng?
Tìm hiểu lịch Phật, ta phải sưu
tầm kinh điển; bây giờ muốn trả lời thỏa đáng câu hỏi vừa đặt ra, ta phải
tạm gác kinh điển và nhìn vào lịch sử văn hóa. Năm 1939, để kỷ niệm 300 năm
thành lập Viện Ðại học Harvard, giáo sư Hồ Thích, là người được xem như là
lý thuyết gia của cuộc cách mệnh tam dân Trung Hoa, được mời đến đọc một bài
diễn văn gợi ý cho giới trí thức, nhan đề là "Nước Ấn Ðộ chinh phục Trung
Hoa". Ngày đó, vừa sáng chói nền văn minh vật chất Tây phương, và nước Tàu
đang bị chìm đắm trong quên lãng, đang bị hiếp đáp đủ bề từ tinh thần đến
vật chất. Bác sĩ Hồ Thích là người có tư tưởng hướng về phát triển, đóng
khung trong những nguyên tắc tu, tề, trị, bình. Ông phân tích các lý do chậm
tiến của người Trung Hoa: đáng lẽ xã hội Trung Hoa phải ngời sáng vì trào
lưu phát triển mới đang dựa vào cơ khí kỹ thuật, mà cá tính Trung Hoa chính
lại là thiên về hiện thực, thuận tiện cho phát triển. Và ông nêu lên những
điểm mâu thuẫn giữa đạo Phật chuộng xuất thế, xa những mối vương lụy với
cuộc đời, với thực chất phát triển là đời sống hiện thực. May thay cho xã
hội Trung Hoa sau một nghìn năm cực thịnh lúc đạo Phật mới du nhập Trung
Hoa, sang đời Tống các tư tưởng và sinh hoạt truyền thống của Trung Hoa lại
thắng thế. Người Trung Hoa đã chấp nhận nhiệt thành, nhưng cũng quật cường
biến đổi đạo Phật thành một tôn giáo thích hợp với đời sống của người Trung
Hoa hơn.
Bốn mươi năm sau, cũng tại một
trung tâm Ðại học lớn ở Hoa Kỳ, đại học Yale, một nhóm học giả do giáo sư
Kenneth Chen dẫn đầu đã trở lại đề tài này với một nhãn quan mới lạ hơn.
Thay vì quan niệm như Bác sĩ Hồ Thích là đạo Phật từ Ấn Ðộ đã chinh phục
Trung Hoa ("The Indianization of China by Buddhism"), nhóm tư tưởng gia mới
đặt vấn đề sát với sự thật hơn là "Trung Hoa đã biến đổi đạo Phật" ("The
Chinese Transformation of Buddhism"). Ðạo Phật, như một hạt giống mầu nhiệm,
đi vào Trung Hoa là một môi sinh vừa súc tích vừa hãm hại. Súc tích vô cùng,
làm nẩy nở đạo của Thích Ca trên một nửa địa cầu và nhân loại ngày đó; đồng
thời cũng hãm hại vì đạo của Thích Ca đã phải thay đổi nhiều trong giáo lý
căn bản để tập quán và phát triển tại Trung Hoa và các nước láng giềng Trung
Hoa, như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...
Bởi lẽ đó mà tại các quốc gia theo Phật giáo Ðại thừa của Trung Hoa, nét
phân biệt giữa nếp sống xã hội và các sinh hoạt thuần túy tôn giáo bị xóa
nhòa, và ngày Tết đồng hóa với một ngày lễ Phật. Tại Trung Hoa và Việt Nam
lại còn có một truyền thống đã lâu đời (trước đời Ðường, thế kỷ thứ 7) là
trong dịp Tết lại làm lễ Phật Thượng nguyên vào ngày rằm tháng Giêng. Thượng
nguyên là một ngày lễ Phật lớn, "lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng
Giêng", tiếp theo mấy ngày Tết. Ngày trước bên Trung Hoa, lễ này còn gọi là
"Hội Hoa đăng", kéo dài ba ngày từ 14 đến 16 tháng giêng. Tại chùa và trong
mỗi gia cư đều thắp đèn và dân chúng cầm đèn đi lại suốt đêm. Giáo sư
Kenneth Chen, dẫn sách "Ðường lục điểm" kể lại là ngày đó, dưới đời Ðường,
các chùa rất giàu có nên cấp dầu cho mỗi gia cư để làm hội đèn, vui lễ Phật.
Như vậy, nhờ các buổi lễ Phật như
ngày Tết Nguyên đán và Hội Hoa đăng mà lễ Phật không còn riêng của những
người trong tăng chúng, những người "đi tu tại gia" mà là của đại chúng.
Người ở địa vị cao sang, kẻ bần cùng; người giàu kẻ khó; người thuộc quý
tộc, kẻ trong Tăng giới và đám dân gian đại chúng, tất cả hòa đồng vào ý
niệm đoàn kết và hỗ trợ, chung một lòng tin.
Ngày xưa tại Trung Hoa, lễ lạc được thiết nghi phù hợp với nếp sống của từng
giai cấp xã hội. Các buổi lễ cúng tế theo đạo Khổng trong miếu đường, ngoài
phủ thất rất nhiều nghi vệ và đầy chi tiết phiền toái, đám dân gian không
hiểu nổi. Mặt khác, các buổi lễ theo đạo Lão, sau sinh thời của Lão Tử đã
biến thành tà thuật, bùa phép chỉ gây thêm sợ hãi cho đám bình dân. Chỉ
có lễ Phật trong tinh thần hỷ xả, an vui là thích hợp với nhu cầu hướng
thiện, hướng lạc của đại chúng. Vì lẽ đó mà ta hiểu được là Tết Nguyên
đán, từ lâu đã được người Việt Nam ta xem như là một ngày lễ có nhiều tính
cách Phật giáo.
Nguyễn Phúc Bửu Tập

|