ANAGARIKA DHARMAPALA
A DỤC VƯƠNG CỦA TÍCH LAN
Hoà Thượng THÍCH TRÍ CHƠN
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất
hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục
vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêu và nhân loại. Chẳng khác gì
A Dục Vương, đời sống của Đại Đức cũng được hướng dẫn bởi tinh thần nhân đạo.
Vào thế kỷ thứ 03 trước tây lịch vua A Dục đã bành trướng Phật Giáo khắp Ấn
Ðộ, Tích Lan và thế giới do những đoàn truyền giáo của ngài. Trong thời đại
chúng ta, Ðại Đức Dharmapala cũng làm một công việc vĩ đại lợi ích cho nhân
loại là phục hưng Phật Giáo và văn hóa đạo Phật ở Ấn Ðộ, Tích Lan, nhiều
quốc gia Á Châu Phật Giáo suy tàn, cùng các nước Tây Phương thịnh hành Thiên
chúa.
Sự thịnh suy của những nền văn
minh là một điều tất nhiên trong lịch sử. Cho nên thời gian từ thế kỷ thứ 03
trước tây lịch đến thế kỷ thứ 12 sau tây lịch, có thể xem như là thời kỳ cực
thịnh vàng son của nền Phật Giáo Ấn Ðộ, Tích Lan. Nhưng từ thế kỷ 12 sau
Thiên Chúa, những nền văn minh này bắt đầu suy tàn. Và đến thế kỷ thứ 16,
khi người Bồ Ðào Nha, Ðức và Anh xâm lăng Châu Á thì những nền văn minh trên
gần như rơi vào tình trạng suy sụp hẳn. Sự thống trị này của ngoại bang đã
phá hủy nền văn hóa cổ truyền của xứ sở và những đoàn truyền giáo Thiên Chúa
đã được dịp phát triển mau lẹ tại các quốc gia trên ở Châu Á. Nhiều trường
học Thiên Chúa đã được thành lập bởi các giáo hội Thiên Chúa. Số đông trẻ em
Phật tử bắt buộc phải đến học tại những trường này và các Phật tử không
tránh khỏi bị cưỡng bức đi lễ nhà thờ.
Thêm vào đó người ta còn dùng áp
lực kinh tế để khuyến dụ các Phật tử vào đạo. Thật là một thời kỳ tủi nhục,
giai đoạn mà người con Phật cảm thấy sợ sệt mỗi khi tự nhận mình là Phật tử
và nền văn hóa Phật Giáo bị suy đồi thảm hại. Chính giữa lúc Tích Lan gặp
cơn quốc biến này, một hài nhi thuộc gia đình phú quí Sinhalese đã ra đời
tại Colombo (Tích Lan) để sau trở thành vĩ nhân, hướng dẫn dân tộc ông phục
hưng lại nền văn hóa và đạo lý cổ truyền cao quý của quốc gia. Hài nhi đó
tên là David Hewavitharne và sau mang pháp danh là Anagarika Dharmapala,
sinh ngày 17-09-1864 và mất ngày 27-09-1934.
David Hewavitharne được giáo
dưỡng trong văn hóa Sinhalese, xây dựng trên nền tảng nhân sinh Phật Giáo.
Lòng thành kính chánh pháp của cha mẹ ông đã rèn luyện cho ông có được cái
đạo hiếu cổ truyền, vốn là di sản của dân tộc ông từ hơn 2500 năm về trước.
Noi gương hai thân sinh, hằng ngày ông sống quy y theo Phật, Pháp, Tăng và
giữ gìn năm cấm giới theo tập tục của hàng dân chúng. Số kiếp ông sinh ra
như để trở thành một nhân vật cao cả và một đệ tử nhiệt thành của đức Phật.
Thay vì chạy theo những cám dỗ của xã hội tân tiến bấy giờ, ông đã sống một
cuộc đời trong sạch và bình dị, tránh xa những ý tưởng tội lỗi và bất thiện.
Theo tục lệ Phật Giáo, bài vỡ
lòng tiếng Sinhalese đầu tiên của đứa trẻ phải do một nhà sư chỉ dạy. Do đó
không ai ngạc nhiên thấy rằng Dharmapala đã thụ giáo bài học khai tâm với
Đại Đức học giả Siri Sumangala, giáo sư đại học đường Vidyodaya Pirivena,
tức trường đại học Vidyodaya của Tích Lan bây giờ. Sau khi theo học một vài
trường Thiên Chúa giáo, Dharmapala vào dự học ở trường Anh Quốc giáo phái
tại Kotte cách Colombo sáu dặm. Tại đây, Dharmapala bị bắt buộc đi lễ nhà
thờ vào lúc 7 giờ 30 mỗi sáng và để nghe giảng kinh Thánh (Bible) hằng ngày.
Về sau, Dharmapala xin vào học
tại trường đại học Thánh Thomas gần Colombo. Ðây là một trường giáo dục cao
cấp của Thiên Chúa, có một kỷ luật rất nghiêm khắc. Và trong thời gian này,
điều đã khiến cho Dharmapala giữ được tín ngưỡng Phật Thích Ca là chính bởi
những đức tính khoan dung và kính trọng các tôn giáo khác của Phật Giáo cũng
như do ở sự hấp thụ sâu xa giáo lý đức Phật nơi hai thân sinh ông ta. Ngày
nay nhờ ảnh hưởng công trình rộng lớn của đại tá Phật tử Olcolt (Hoa kỳ) và
Đại Đức Dharmapala mà tất cả những con em Phật tử đều được hấp thụ nền học
vấn Sinhalese và Phật Giáo tại bất cứ trường nào chúng theo học.
Tháng 05 năm 1886, Ðại tá Olcolt
và bà Blavatsky (người Nga) đến Colombo là một biến cố trọng đại trong phong
trào phục hưng Phật Giáo tại Tích Lan. Cả hai là những nhà sáng lập Hội
Thông Thiên Học tại thành phố Nữu Ước (Mỹ quốc). Trước kia họ từng liên lạc
mật thiết với Đại Đức Migettuwatte Gunananda, một danh Tăng diễn thuyết tài
ba và đã nhiều lần đánh bại những giáo sĩ Thiên chúa trong các cuộc tranh
luận tôn giáo được tổ chức công cộng tại Panadura vài năm 1873. Giáo lý cao
siêu của đức Phật đã vượt thắng mọi giáo điều của Thiên Chúa. Và chính những
cuộc tranh luận này đã ảnh hưởng đến quyết định sang Tích Lan tìm hiểu Phật
Giáo của hai nhà sáng lập Hội Thông Thiên Học nói trên.
Có thể nói rằng, hành động đến
Galle, miền Nam Tích Lan ngày 21-05-1880 của đại tá Henry S. Olcolt và bà
Blavatsky để làm lễ quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới với một đại sư Tích Lan đã
ảnh hưởng sâu xa đến tâm hồn chàng thanh niên Dharmapala. Và chính
Dharmapala cùng với hai thân sinh của người cũng có tham dự trong buổi lễ
nầy. Ðây là biến cố trọng đại, lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Tích Lan
đã có hai người Tây phương đến xứ này để công khai thọ lãnh Phật pháp. Hành
động quy y Phật của bà Blavatsky và đại tá Olcolt đã mở đầu một kỷ nguyên
mới cho lịch sử Phật Giáo Tích Lan.
Năm 1883 một đám đông tín đồ
Thiên Chúa đã đánh phá một đám rước Phật Giáo ngay tại trước nhà thờ Thiên
Chúa ở Kotahena, phía bắc Colombo. Việc này khiến cho thân sinh của
Dharmapala vô cùng căm tức và từ đó ông nhất quyết không cho con ông đến học
các trường Thiên Chúa nữa. Dharmapala bị bắt buộc phải rời Ðại Học Ðường
Thánh Thomas và mấy tháng đầu ông được gởi đến thư viện quốc gia Colombo để
nghiên cứu về các môn cổ học Châu Âu. Năm 1884, Dharmapala được 18 tuổi, đã
cùng hai nhà sư khác tham gia hoạt động cho Hội Thông Thiên Học tại Tích
Lan. Dharmapala cũng với đã trải qua một thời gian nghiên cứu với bà
Blavatsky tại trụ sở Hội Thông Thiên Học ở Ấn Độ.
Mặc dù chẳng ham thích nghiên cứu
về các hiện tượng huyền bí, nhưng bà Blavatsky vẫn khuyến khích anh ta học
hỏi thêm tiếng Pali và kinh điển Phật Giáo. Khi trở về Tích Lan, bấy giờ
Dharmapala đúng 20 tuổi. Ông xin phép thân phụ cho ông sống độc thân để bắt
đầu hoạt động phụng sự cho Phật Giáo. Nhưng thân sinh ông do dự trước trước
lời thỉnh nguyện này. Sau đó, Dharmapala vào làm việc ở Hội Thông Thiên Học
tại Tích Lan, sống cuộc đời như một nhân viên thư ký của chính phủ.
Năm 1886, đại tá Phật tử Olcolt
và Đại Đức C.M.Leadbeater từ Adyar (Ấn Ðộ) trở sang Colombo để quyên tiền
giúp cho tổ chức giáo dục Phật tử Tích Lan. Họ định đi khắp Tích Lan và cần
một thông dịch viên vì bấy giờ họ không nói được tiếng Sinhalese. Dharmapala
lúc đó đang làm thư ký ở Bộ Quốc Gia Giáo Dục Tích Lan, liền xin thôi việc
và lập tức nhận lời giúp họ trong công tác này. Thân sinh Dharmapala nghe
tin liền hoảng hốt nhưng bà thân ông lại bằng lòng. Sau ba tháng đi khắp các
xóm làng Tích Lan bằng xe bò (bullock cart), đến năm 1887 phái đoàn họ trở
thành những hình ảnh quen thuộc trong phòng trào phục hưng Phật Giáo xứ ở
Tích Lan. Chàng thanh niên Dharmapala đã nói trôi chảy như đại tá Phật tử
Olcolt về mọi vấn đề xã hội, kinh tế và tôn giáo.
Từ năm 1885 đến 1889, Dharmapala
đã dành hết cả thì giờ hoạt động cho phong trào chấn hưng đạo pháp để rồi
ông nghiễm nhiên chẳng khác gì A Dục Vương thời xưa của Ấn Ðộ, trở thành nhà
truyền bá Phật Giáo vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. Trong thời gian này,
Dharmapala cùng với đại tá Phật tử Olcolt thành lập tờ tuần san “San-darasa”
bằng tiếng Sinhalese và tháng 12 năm 1888 lại cho ấn hành số đầu tiên tạp
chí “Phật tử” (The Buddhist) bằng Anh văn do Đại Đức Leadbeater làm chủ
nhiệm. Tạp chí này sau trở thành cơ quan ngôn luận của Hội Thanh Niên Phật
Tử Colombo (Colombo Young Men’s Buddhist Association) và đến nay đã có một
lịch sử lâu dài 75 năm phụng sự đạo pháp.
Năm 1889, đại tá Olcolt cùng với
Đại Đức Dharmapala sang Nhật Bản. Họ mang theo bức thư tỏ bày thiện cảm của
Phật tử Tích Lan gởi đến toàn dân chúng Phật tử Nhật viết bằng Phạn văn
(Sanskrit). Nhật Bản là một trong vài ba quốc gia được độc lập ở Châu Á và
họ đã đóng góp một vai trò quan trọng trong sự phục hưng Phật Giáo tại những
nước Á Châu. Tháng giêng năm 1891, Đại Đức Dharmapala cùng với một vị Tăng
Nhật Bản, Đại Đức Kozen Gunaratne sang thăm các nơi thánh tích Phật Giáo tại
Ấn Ðộ.
Đại Đức Dharmapala thấy cảnh Bồ
Ðề Ðạo Tràng (Buddha Gaya), nơi đức Phật thành đạo tiêu điều hoang phế và
Chùa Bồ Ðề Ðạo Tràng bấy giờ thuộc quyền quản trị của một tên xấu xa trục
lợi là Mahant. Ðại đức đã nhiều năm đứng ra nỗ lực tranh đấu để giành lại
thánh tích này nhưng thất bại. Tuy nhiên về sau chính phủ Ấn Đọ giao Bồ Đề
Ðạo Tràng cho một ban quản trị hỗn hợp gồm các tín đồ Ấn Giáo lẫn Phật Giáo
chăm sóc, đã gây nhiều thiện cảm đối với Phật tử Á Châu.
Sự thay đổi này là hoàn toàn do
công trình tranh đấu cương quyết của Đại Đức Dharmapala cùng với sự đồng
tình lên tiếng ủng hộ của hang triệu Phật tử khắp nơi trên thế giới Hội Ma
Ha Bồ Đề (Maha Boddhi) do Đại Đức Dharmapala thành lập tại Bồ Ðề Ðạo Tràng
năm 1881 và được dời về Calcutta năm 1882. Hiện nay Hội này vẫn còn là một
cơ quan Phật Giáo hoạt động mạnh nhất tại Ấn. Trụ sở của hội đặt tại số 4A
đường Chatterjee, Calcutta 12 India (Ấn Ðộ). Tại đó hiện còn di tích một đài
kỷ niệm tráng lệ để ghi nhớ công đức không riêng mình Đại Đức mà cả bà
Foster ở Hạ Uy Di (Hawaii) cũng là ân nhân của hội. Tại Calcutta, Đại Đức đã
chủ trương ấn hành tạp chí Đại Giác (Maha Bodhi). Tờ báo này đã tiếp tục
xuất bản suốt 71 năm qua và hiện nay nó là một trong những nguyệt san Phật
Giáo đã góp phần đắc lực trong việc truyền bá chánh pháp của đức Phật.
Năm 1893, nhân dịp triển lãm quốc
tế ở Columbia một cuộc hội thảo các tôn giáo thế giới đã được tổ chức tại
phòng khánh tiết Columbus ở thành phố Chicago (Mỹ quốc) và đây là một biến
cố trọng đại nhất vào cuối thể kỷ 19. Tại diễn đàn công cộng, cùng với những
lãnh tụ các tôn giáo lớn khác, Đại Đức Dharmapala đã diễn thuyết ba lần
trước số đông thính giả trí thức về tôn giáo cao siêu của đức Phật. Mặc dù
Đại Đức không có tài hùng biện hấp dẫn như Vivekananda, thuyết trình viên về
Ấn Ðộ giáo, nhưng bằng một lời nói giản dị và cứng rắn, những bài thuyết
pháp của Đại Đức đã khiến cho đa số dân chúng Mỹ quốc bấy giờ chú ý và ham
thích.
Đại Đức Dharmapala cũng đã sang
thăm Anh quốc nhiều lần. Trong chuyến đi đầu tiên vào năm 1893, Đại Đức đã
cố gắng mong thành lập tại Luân Ðôn một chi nhánh của Hội Ma Ha Bồ Đề, nhưng
công việc không thành. Lần đầu tiên trong lịch sử Ấn Ðộ, Đại Đức cũng là
người đã đứng ra tổ chức lễ Phật Đản vào ngày 26-05-1896 tại Calcutta Ấn Độ.
Buổi lễ này được đặt dưới quyền chủ tọa của ông Narenda Nath Sen. Đại Đức
cũng cơ duyên may mắn đứng ra tổ chức đại lễ Phật Đản đầu tiên tại Nữu Ước (Hoa
Kỳ) vào năm 1897, nhân chuyến sang thăm Mỹ quốc lần thứ hai do lời mời của
bác sĩ Paul Carus.
Thân sinh của Đại Đức, người đã
cúng rất nhiều tài chánh vào việc bành trướng giáo lý đức Phật, mất năm
1891. Nghe tin này, bà Foster ở Hạ Uy Di, người đã ủng hộ tích cực phong
trào chấn hưng Phật Giáo, đã viết thư thỉnh cầu Dharmapala nhận bà làm mẹ
nuôi. Bà đã gởi cúng cho Đại Đức một số tiền lớn, mà nếu không có số tiền
này thì chắc Đại Đức khó lòng theo đuổi chí nguyện hoằng pháp tại Ấn Ðộ cũng
như Tích Lan.
Năm 1913, Đại Đức Dharmapala rời
Tích Lan đi Honolulu (Hạ Uy Di) để cảm ơn bà Foster đã nhiệt thành giúp đỡ
cho hội Ma Ha Bồ Đề chính nhờ số tiền hỷ cúng của bà này mà hội đã mua được
một tòa lầu tại Calcutta để làm trụ sở. Trước khi Đại Đức rời Hạ Uy Di, bà
Foster đã cúng cho Đại Đức một số tiền 60.000 Rupees. Đại Đức đã dùng số bạc
này để xây cất một nhà thương danh tiếng tại Colombo (Tích Lan) và đặt tên
là bệnh viện Foster Robinson để ghi nhớ công đức vô lượng của bà ta. Bà
Foster còn giúp trong việc xây cất chùa Siri Dharmarajika Chaitiya ở
Calcutta.
Năm 1920, Lord Ronaldshay, toàn
quyền Anh tại Ấn Ðộ cũng có cúng cho chùa 1 viên xá lợi của Phật để thờ. Xá
lợi này tìm thấy ở quận Madras (Ấn Ðộ) và Phật sự sau cùng mà Đại Đức đã
hoàn thành là trùng tu Chùa Muladhakuti ở Sarnath, nơi đức Phật thuyết pháp
đầu tiên và an vị thờ tại đó một xá lợi của Phật do vị thống đốc Anh ở
Bengal cúng. Và cũng như sự nghiệp đóng góp của vua A Dục vào thế kỷ thứ 03
trước tây lịch, Đại Đức đã xây dựng tháp Sanchi ở Bhopal, miền tây bắc Ấn,
để thờ xá lợi của hai vị đại đệ tử của đức Phật là ngài Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên.
Từ năm 1917, Devapriya Valisinha
trở thành vị đệ tử nòng cốt của Đại Đức Dharmapala. Từ khi Đại Đức từ trần
đến nay, ông đã giữ nhiều trọng trách trong mọi ngành hoạt động của hội Ma
Ha Bồ Đề tại Calcutta. Phải kể thêm một vị đệ tử khác của Đại Đức là tỳ kheo
Sangaratane, người từng phục vụ đắc lực cho Hội trên và đã nhận chức trú trì
chùa Sarnath từ tháng 12 năm 1930. Tháng giêng năm 1933, mặc dù kém sức khỏe
Đại Đức đã thọ giới với pháp hiệu là Siri Devamitta Dharmapala. Sau khi Đại
Đức viên tịch vào năm 1934, công nghiệp của ngài đã được tiếp tục bởi đạo
hữu Valisinha, tỳ kheo Sangaratane cùng với số đông Phật tử trí thức ở
Bengal như bác sĩ Nag N. Dutt. Và gần đây, phong trào dân chúng cải giáo quy
y theo Phật của cố tiến sĩ Ambedkar, nhà lãnh đạo những giai cấp hạ tiện tại
Ấn Ðộ với hàng triệu tín hữu của ông ta cũng nhờ bởi công trình đóng góp vô
vị lợi cho nhân loại của cố Đại Đức Dharmapala trước kia vậy.

|