CON
ĐƯỜNG DẪN ĐẾN CHÂN HẠNH PHÚC
Nguyên tác:
Đức Đạt
Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ:
HT Thích
Trí Chơn
(Trích từ sách “Live
In A Better Way”)
Là con người
căn bản chúng ta đều giống nhau. Tất cả chúng ta đều sống chung trên quả đất
này. Mọi người đều có cùng một ước nguyện là muốn sống hạnh phúc và không
thích khổ đau. Tất cả chúng ta đều yêu thương chính mình và mong gặp điều
may mắn. Hiện nay, về phương diện phát triển đời sống vật chất, chúng ta đã
thành đạt rất nhiều điều và mọi quốc gia trên hành tinh này đang nhắm đến
một cuộc sống toàn hảo và xây dựng một xã hội văn minh phồn thịnh hơn.
Thực vậy, chúng
ta đã thành công có được các điều ấy. Tuy nhiên sự phát triển, tiến bộ về
mặt vật chất không chưa đủ để mang lại hạnh phúc cho con người. Lý do rất
giản dị, vì con người không phải là sản phẩm của máy móc mà nó còn có đời
sống tinh thần. Bởi vậy chúng ta phải cần đến những điều khác hơn ngoài thế
giới vật chất bên ngoài để có được hạnh phúc.
Điều quan trọng
nhất trong cuộc sống của con người là tình thương. Thiếu tình thương, con
người không thể có hạnh phúc chân thật. Nếu chúng ta muốn có một đời sống,
một gia đình, một người bạn hàng xóm và một quốc gia hạnh phúc hơn thì bí
quyết thành công hoàn toàn nằm ở trong tâm con người. Dù cho dân số năm tỉ
người hiện đang sống trên trái đất này trở thành triệu phú hết, nhưng thiếu
vắng sự an lạc nội tâm thì con người vẫn không thể có sự bình an và hạnh
phúc lâu dài.
Một vài người rất giàu,
nhưng chúng ta nhận thấy họ thường không có hạnh phúc gì cả. Sự cảm mến,
tình thương và lòng từ bi là những chất liệu hết sức cần thiết cho cuộc sống
của nhân loại. Tâm an lạc giúp nhiều cho sức khỏe của chúng ta. Hẵn nhiên
các tiện nghi vật chất, thực phẩm và thuốc men cũng mang lại sự lành mạnh
cho thân thể con người. Nhưng hạnh phúc tinh thần vẫn là điều quan trọng
nhất cho sức khỏe tốt của chúng ta.
Mọi người đều
quan tâm đến nền hòa bình thế giới. Vũ khí tối tân hay sức mạnh quân sự,
trong vài trường hợp và hoàn cảnh, đôi lúc có thể mang lại nền hòa bình tạm
bợ. Nhưng về lâu dài sự xung đột quân sự, lòng hận thù và nghi ngờ không thể
giúp chúng ta có được nền hòa bình thế giới đích thực và trường cữu. Hòa
bình thế giới chỉ thành đạt qua sự an lạc nội tâm, biết lắng nghe, thông cảm
và kính trọng lẫn nhau của con người. Nói tắt, tình thương và lòng từ bi vẫn
là chìa khóa và bí quyết thành công dẫn đến thế giới hòa bình.
Chúng ta hãy
xét đến trường hợp của một gia đình có hạnh phúc. Điều căn bản vẫn là xây
dựng trên tình thương. Sự thành công hay thất bại của chúng ta trong cuộc
sống phần lớn tùy thuộc vào môi trường và hoàn cảnh trong đó chúng ta được
nuôi dưỡng và lớn lên. Trẻ con sinh ở các gia đình với tình thương và sự
chăm sóc đầy đủ của cha mẹ sẽ là những người gặt hái thành công và đạt nhiều
hạnh phúc nhất. Trái lại, cuộc đời của em bé có thể bị hủy hoại nếu nó lớn
lên trong sự hất hũi, bạc đãi và thiếu tình thương của các bậc phụ huynh.
Tình thương bắt
nguồn từ đâu và bằng cách nào chúng ta có thể giúp nó tăng trưởng và phát
triển? Bao lâu tâm con người tồn tại thì hạt giống của tình thương còn hiện
hữu. Mặc dù những ý tưởng xấu lẫn tốt, tất cả đều phát xuất từ ở tâm con
người, nhưng tình cảm mạnh nhất trong đời sống con người vẫn là lòng yêu
thương. Cho nên hạt giống từ bi luôn luôn là bản chất tự nhiên vốn sẵn có
ngay từ lúc con người vừa mới chào đời.
Lúc chúng ta
sinh ra, chúng ta hoàn toàn không biết gì về ý thức hệ, chủ nghĩa hay tôn
giáo, và tất cả những điều này về sau chúng ta mới nghĩ đến. Nhưng tình
thương thì chúng ta rất cần có ngay vào lúc ấy. Thực vậy, một em bé vừa mới
lọt lòng không thể sống nếu thiếu tình thương và sự chăm sóc của bà mẹ.
Bởi vậy, tình thương là
món ăn rất quan trọng và cần thiết nhất để nuôi sống con người. Lòng từ bi
không phải là tình yêu say đắm lạc thú giữa đôi trai gái nam nữ. Lòng từ bi
chân thật không chỉ bày tỏ tình cảm mến yêu mà còn là ý thức trách nhiệm
chia sẽ và tận tình giúp đỡ lẫn nhau. Lòng từ bi thực sự phát sinh khi chúng
ta nhận thấy một người đang đau khổ, tức thì chúng ta tìm cách muốn cứu họ
thoát khỏi cảnh khổ ấy để họ có hạnh phúc.
Chúng ta thường
nghĩ rằng khi chúng ta có lòng từ bi với ai là bởi người ấy có tình cảm sống
gần gũi với mình. Nghĩa là lúc họ còn là bạn thân, chúng ta mới nghĩ tưởng
đến họ. Khi người đó không còn gắn bó yêu thương mình hoặc là chúng ta thay
đổi không muốn thân thiết với họ thì lòng từ bi nơi mình cũng chấm dứt. Đây
không phải là lòng từ bi đích thực, mà chỉ là sự tham đắm. Người có lòng từ
bi chân chính không bao giờ phân biệt người mình cứu giúp là thân hay sơ,
bạn hay thù; mà chúng ta chỉ biết rằng kẻ đó đang gặp khó khăn, đau khổ và
họ cũng muốn chấm dứt sự khổ đau ấy để có hạnh phúc giống như ta.
Hôn nhân và ái
dục không phải là kết quả duy nhất của tình yêu cuồng dại giữa hai nam nữ,
mà hai người còn phải tìm hiểu và thông cảm thực sự với nhau. Khi bạn biết
rõ về tánh tình, thói hư tật xấu cũng như tình trạng sức khỏe của người mình
yêu thì bạn mới có thể hoàn toàn tin tưởng và kính trọng người bạn đời tương
lai của mình. Và khi đó bạn mới quyết định tiến tới hôn nhân lập gia đình
với nhau được. Ngoài ra còn phải ý thức trách nhiệm giữa hai người nữa. Cho
nên đôi nam nữ muốn kết hôn và sống hạnh phúc lâu dài thì phải xét kỹ đến
mọi khía cạnh nêu trên.
Là con người
chúng ta có nhiều khả năng đặc biệt và trí hiểu biết. Những kẻ càng thông
minh họ càng thấy xa rộng. Những ai càng giàu sang họ càng có trách nhiệm
đối với chính mình và tha nhân. Thực vậy, là con người, chúng ta không chỉ
có trách nhiệm giúp đỡ mọi kẻ khác mà còn phải nghĩ đến hạnh phúc của toàn
thể nhân loại cũng như sự tồn vong của quả đất này. Nếu dùng khả năng và trí
thông minh của chúng ta vào công việc hủy diệt hạnh phúc của con người thì
đó là một tai họa khủng khiếp cho kiếp nhân sinh. Chúng ta nên sử dụng kiến
thức và tài năng của mình vào công việc xây dựng mang lai phúc lợi cho mọi
chúng sanh. Tôi tin rằng những ai vận dụng tài trí của mình cho quyền lợi
riêng tư ích kỷ, không nghĩ đến hạnh phúc của kẻ khác; sau này sẽ không
tránh khỏi sự ân hận hối tiếc.
Tôi nghĩ rằng
cả loài người và thú vật đều có tri giác hiểu biết. Nếu chúng ta đối xử có
lòng thương yêu chó mèo thì chúng sẽ thân mến với chúng ta. Nếu chúng ta
ghét bỏ xua đuổi thì chúng cũng biết và không thích như thế. Nếu chúng ta
sống có lòng tốt, thiện cảm với ai thì người đó lúc nào cũng muốn như vậy.
Trường hợp chúng ta đối xử xấu, làm hại kẻ khác thì họ sẽ đáp lại cũng không
tốt và gây buồn phiền cho mình, dù họ là người có tôn giáo hay không, giàu
hoặc nghèo, trí thức hay ngu dốt. Cho nên tình thương và lòng từ bi rất cần
thiết cho mọi người vì tất cả chúng ta đều muốn có hạnh phúc, và không thích
khổ đau.
Một số người
nghĩ rằng tình thương và lòng từ bi hỷ xả là những đức tánh thuộc về tôn
giáo. Nói vậy là không đúng, mà chúng là những hành động lành nên thực hiện.
Và không ai có thể không biết, dù họ là người có tín ngưỡng hay không. Đó là
các thiện tánh rất cần thiết nếu chúng ta muốn sống có hạnh phúc và trở
thành những công dân toàn hảo. Về mặt tôn giáo, nếu thấy đạo nào thích hợp
với mình, bạn nên chọn theo tín ngưỡng ấy. Nếu không muốn thì bạn từ bỏ cũng
chắng sao. Nhưng điều quan trọng là bạn nên có tình thương vì đó là nền tảng
đạo đức căn bản và cần thiết của con người.
Hạnh phúc thuộc
về tinh thần. Máy móc không thể cung cấp, và ta cũng không mua hạnh phúc
được. Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh
phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Các thứ trên không trực tiếp giúp
chúng ta hạnh phúc được. Hạnh phúc đến từ trong tâm chứ không ai có thể cho
mình. Tâm bình an là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc
ngoại cảnh. Cuộc sống chúng ta dù thiếu tiện nghi vật chất, học vấn tầm
thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công cũng chẳng sao, miễn là
tâm chúng ta an lạc.
Chia sẻ tình
thương, bố thí giúp đỡ cho kẻ nghèo khổ túng thiếu bần hàn là những bí quyết
căn bản mang lại hạnh phúc cho chúng ta. Hãy cố gắng trở thành con người đạo
đức với tâm hồn vị tha, bất luận bạn là nhà tôn giáo, chính trị hay thương
gia. Một cá nhân toàn thiện có thể góp phần tích cực cho hạnh phúc của gia
đình và cộng đồng.
Những tôn giáo ra đời
vào các thời điểm và nơi chốn khác nhau. Tôi nghĩ rằng mọi tín ngưỡng đều
giúp con người phát triển các tánh tốt và diệt trừ những tánh xấu. Nhiều tôn
giáo lớn trên thế giới đều truyền đạt chung một bức thông điệp tình thương
và lòng từ bi, mặc dù sự diễn đạt giáo lý có khác nhau. Mọi tín ngưỡng đều
dạy con người biết thương yêu, lắng nghe và tha thứ cho nhau, cũng như xây
dựng và phát triển các đức tánh tốt nơi con người.
Qua nhiều thế
kỷ, hàng triệu nhân loại đã tiếp nhận nguồn phúc lợi vô biên từ các tôn
giáo. Nhưng rất tiếc những tín ngưỡng khác biệt nhau đó đã gây nên sự xung
đột hận thù, khủng bố và chiến tranh. Nếu hiểu biết rằng mục đích chung của
các tôn giáo là nhằm hướng dẫn đào luyện chúng ta trở thành những con người
đạo đức lương thiện, thì chúng ta nên kính trọng tất cả các tôn giáo.
Có
hai loại tôn giáo. Một nhóm tôi gọi là các tôn giáo hữu thần như Thiên Chúa,
Do Thái, Ấn Độ và Hồi Giáo. Các đạo giáo này tin vào một đấng Thượng Đế. Một
nhóm khác gồm các tôn giáo vô thần như Phật Giáo và Kỳ Na Giáo v..v... Họ
không tin vào Thượng Đế, đấng Tạo Hóa và Toàn Năng. Phật giáo không chấp
nhận lý thuyết có một linh hồn bất tử. Điều này phân biệt giữa những người
Phật tử và không Phật tử. Giáo lý căn bản của đức Phật là phủ nhận có một
linh hồn hay bản ngã thường còn.
Phật giáo còn
chia làm hai giáo phái: Nguyên thỉ hay Nam Tông và Đại thừa hay Bắc Tông.
Người tu theo Phật giáo Nguyên thỉ nhằm mục đích giải thoát cho chính mình
bằng cách thực hành thiền định và nghiêm trì giới luật Phật chế. Còn mục
tiêu của Phật giáo Đại Thừa, ngoài tự độ mình giải thoát, hành giả còn thực
hành sáu phép Ba La Mật nhằm cứu giúp hết thảy mọi chúng sanh thoát khỏi
vòng luân hồi sinh tử, để cuối cùng đạt đến quả vị thành Phật.
Căn
bản của sự tu tập theo các giáo phái trên là bất bạo động. Tại sao bất bạo
động là quan trọng? Vì theo lý nhân duyên sinh, tất cả vạn vật hiện hữu đều
có tương quan tương duyên với nhau. Chẳng hạn sự sống cũng như hạnh phúc của
mỗi cá nhân đều tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân. Tương tự như thế, sự đau
khổ và bất hạnh của mình cũng phát sinh từ nhiều lý do. Cho nên, nền tảng
của Phật giáo và sự tu tập là bất bạo động và lý nhân duyên sinh. Bất bạo
động có hai trường hợp: Một là, nếu có thể, bạn nên cứu giúp mọi chúng sanh;
và hai là nếu không có thể, thì ít ra bạn đừng bao giờ làm hại đến kẻ khác.
Lý nhân duyên
sanh được diễn tả sai biệt tùy theo giáo lý khác nhau. Danh từ tương quan
tương duyên có nghĩa là mọi vật hình thành đều do nhân duyên. Nghĩa là không
có đấng tạo hóa, một vật sinh ra đều có nguyên nhân, và các nhân này hiện
hữu nhờ vào các nhân trước đó; và cứ như vậy tiếp tục mãi mà không có sự
khởi đầu. Mọi vật thay đổi là do các nhân và duyên này. Nhân mới sanh ra quả
mới và quả này trở lại làm nhân để tạo thành quả khác nữa. Đây là sự diễn
tiến của lý nhân duyên.
Ví dụ chúng ta
tìm hiểu bản chất của chiếc hoa là gì, và khi quan sát kỹ chúng ta thấy nó
gồm các tai hoa tạo thành, cho nên nó là không thực. Điều này giúp chúng ta
hiểu rằng khi chúng ta gọi tên một vật nào thì vật đó do nhiều phần tử nhỏ
hợp lại mà thành. Nếu chúng ta hỏi “Ta là ai?” thì chúng ta sẽ không bao
giờ tìm thấy cái “ta” đích thực khi tách rời nó khỏi thân thể và tâm thức
của mình. Nếu đi sâu hơn nữa để tìm hiểu bản thể sau cùng của con người, thì
chúng ta sẽ không tìm thấy một cái ngã tồn tại độc lập. Chúng ta thường gọi
chung cho cả hai cái thân và tâm này là “con người”. Chẳng hạn chúng ta bảo
rằng cái thân thể và tâm thức của con người Tây Tạng đến từ thành phố Amdô
là “Đức Đạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso”. Tuy nhiên nếu phân tích đến tận cùng
thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy con người đích thực của Đức Đạt Lai
Lạt Ma.
Tương
tự như thế khi chúng ta dùng các danh từ “quá khứ”, “hiện tại” và “tương
lai” để chỉ thời gian thì ta nên biết rằng quá khứ chỉ còn là kỷ niệm, tương
lai là ý tưởng dự tính hay chương trình sắp đến. Giờ phút hiện tại mới là
thực.Tuy nhiên ngay cả ngày, giờ, phút, giây và một phần của giây đó cũng
không còn là hiện tại nữa. Bởi lẽ giây phút hiện tại vừa hiện ra, lại trôi
qua trở thành quá khứ, và sau đó thì tương lai chưa đến cho nên “hiện tại”
cũng không có. Nếu không có “hiện tại” thì chúng ta không thể xác định được
“quá khứ” và “tương lai”. Vì thời gian cứ mãi trôi qua không một giây phút
dừng nghỉ.
Nếu
quá khứ và tương lai không có thì hiện tại cũng không có, bởi lẽ hiện tại
hoàn toàn tùy thuộc vào quá khứ và tương lai tùy thuộc vào hiện tại. Đây là
định luật tự nhiên của vũ trụ. Nếu không như vậy thì thời gian cũng không
có.
Khi
chúng ta gọi “thời gian” dĩ nhiên nó hiện hữu, nhưng không có một danh từ
nào, kể cả trừu tượng để chỉ nó. Nếu phân tích tận cùng, chúng ta thực sự
không thể tìm thấy bất cứ sự vật gì. Theo Phật giáo, bản chất chân thật của
vạn vật vũ trụ là “không”. Nhưng “không” ở đây không phải là hoàn toàn
“không có” gì hết. Bởi lẽ mọi vật hình thành đều do nhân duyên. Cho nên
không có một vật thể nào độc lập mà sinh ra được. Do vậy mà triết lý đạo
Phật gọi là “không”.
Tôi đang ở đây
và đó là sự thật chứ không phải giấc mơ. Nếu tôi véo nơi da thịt, tôi cảm
thấy đau vì tôi có xác thân. Tôi có ngón tay cái với ngón tay trỏ và nhìn rõ
chúng cử động. Tuy nhiên nếu phân tích đến tận cùng, chúng ta không tìm thấy
chúng. Nói khác, sự trống không và tương quan tương duyên là hai mặt của một
đồng tiền.
Đức Phật trước
tiên ngài dạy Tứ Diệu Đế: bốn chân lý về sự khổ, nguồn gốc của sự khổ,
phương pháp diệt khổ và con đường dẫn đến giải thoát an lạc, chấm dứt mọi sự
khổ. Ngài đã dạy về các điều khổ đó, vì sự khổ có nguyên nhân và tất cả
chúng ta đều không muốn khổ. Ngài dạy chúng ta nhận diện sự khổ và nguyên
nhân gây ra sự khổ dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Mục đích của
chúng ta nhắm đến là hạnh phúc và nó lại tùy thuộc vào các nhân duyên khác.
Hạnh phúc có thể tạm thời hay vĩnh viễn. Hạnh phúc lâu dài là điều quan
trọng hơn, cho nên đức Phật đã dạy chân lý thứ ba là diệt trừ sự khổ, nghĩa
là đạt tới cảnh giới Niết Bàn hay hoàn toàn an lạc và giải thoát. Ngài cũng
dạy các pháp môn tu hành để chấm dứt sự khổ.
Tứ Diệu Đế bao
gồm bốn chân lý giải thích về sự hạnh phúc và đau khổ cùng nguyên nhân gây
ra các điều khổ vui ấy. Mục đích của đời sống con người là mong có hạnh
phúc. Từ lúc mới sinh ra, mọi người chúng ta đều có quyền được hưởng hạnh
phúc, và muốn có hạnh phúc lâu dài thì chúng ta phải tu tập phát triển đời
sống nội tâm chứ không ai ban cho mình hay yếu tố bên ngoài trách nhiệm về
sự hạnh phúc đó. Bằng cách nào chúng ta có thể ứng dụng sự hiểu biết về Tứ
Diệu Đế trong cuộc sống hằng ngày. Điều quan trọng trước tiên chúng ta cần
nhận thức rõ cái tâm thấy biết của chúng ta là gì. Nhiều người lầm tưởng
rằng tâm thức của chúng ta là một thực thể độc lập, tách rời khỏi cái thân
(vật lý) của con người. Và cái tâm thức như vậy không hiện hữu được vì chúng
ta không thể tìm thấy “cái ta” nằm ngoài cái thân giả tạm này.
Phật
giáo không chấp nhận một “bản ngã”, linh hồn hay cái ta thường còn. Tuy
nhiên, bởi do tâm thức tùy thuộc vào cái thân vật lý mà tồn tại cho nên
chúng ta tạm gọi nó là tâm thức hay cái thấy biết của con người. Nếu tâm
thức hoàn toàn tách rời và không liên quan gì với cái thân (vật lý) thì sẽ
không có sự khác biệt tâm thức giữa con người và thú vật. Khi bộ óc con
người ngưng hoạt động và nếu tâm thức của họ cũng không còn tồn tại, thì làm
sao giải thích được thuyết luân hồi? Tâm thức con người được phát triển tùy
thuộc vào các nhân và duyên xa hoặc gần, trực tiếp hay gián tiếp.
Chẳng hạn khi tâm thức
mình nhận biết về một chiếc hoa cần phải có những trợ duyên khác. Trước hết
là con mắt. Nếu thiếu nó dù chúng ta có ý thức về cái hoa hay chiếc hoa có
hiện ra trước mặt, chúng ta cũng không nhận biết được nó. Trái lại, nếu chỉ
có tâm thức và con mắt mà không có cái hoa, chúng ta cũng chẳng thấy biết
được nó. Nhưng nếu có hoa và con mắt tốt mà không có bộ óc, chúng ta cũng
không thể nhận biết được cái hoa.
Tri giác hay
tâm thức là một năng lực tinh tế mà qua đó chúng ta có thể hiểu biết được
các sự vật. Tiếng Tây Tạng gọi là “Shepa” nghĩa là “ý thức về một vật gì”.
Cho nên ngoài bộ não ra cần phải có thêm các trợ duyên vi tế hơn thì tâm
thức con người mới hoạt động và phát triển được. Chúng ta có thể gọi đó là
ánh sáng trong suốt (clear light) hay phần sâu kín vi tế nhất của tâm thức.
Ngay hiện giờ
khi các giác quan chúng ta được sử dụng, nhưng hoạt động của chúng vẫn ở mức
độ thô thiển. Vào lúc chúng ta nằm chiêm bao hay ngủ mê, một vài giác quan
không hoạt động, nhưng tiềm thức của chúng ta vẫn hiện hữu. Các bác sĩ cho
biết rằng có bệnh nhân đã qua đời, nhưng thân xác của họ vẫn tồn tại không
hư thối trong một hai ngày, và có trường hợp kéo dài đến vài tuần lễ. Lý do
bởi lẽ tâm thức vẫn còn tồn tại và tiếp tục hoạt động nơi nhục thân của bệnh
nhân. Nói cách khác là thần thức chưa lìa khỏi xác thân của người đó. Do bởi
tâm thức còn làm chủ nơi thân thể cho nên thân xác của họ không bị hư thối,
mặc dù bệnh nhân ấy đã hoàn toàn chết hẵn.
Tôi được biết
có ít nhất là mười hay mười lăm trường hợp như thế đã xảy ra tại Ấn Độ trong
vòng ba mươi năm qua. Đặc biệt trường hợp vị thầy dạy riêng của tôi, sau khi
các bác sĩ cho biết rằng ông đã chết thực sự nhưng ông vẫn ở trong tình
trạng hôn mê kéo dài đến mười ba ngày. Do vậy mà tôi tin rằng phần tâm thức
vi tế nhất luôn luôn tồn tại. Nó có thể tạm thời thay đổi nhưng trường kỳ
hiện hữu chứ không bao giờ hủy diệt. Cho nên tâm thức gồm có hai loại: phần
thô thiển nương gá vào xác thân con người giả tạm này để sinh tồn hoạt động,
nhưng phần vi tế nhất sẽ còn mãi không mất. Và trên căn bản đó mà có sự tái
sinh luân hồi.
Bản chất của
tâm thức là trung dung hay vô ký. Nó có thể ảnh hưởng bởi tánh thiện hay
tánh ác. Lấy ví dụ những người hay có tánh giận dỗi nhất thời. Lúc còn trẻ
tôi cũng thường bị như thế, nhưng không bao giờ kéo dài lâu đến trọn ngày.
Nếu bản gốc tâm con người là hoàn toàn ác thì khi chúng ta nỗi sân, sự sân
hận đó sẽ còn mãi. Nhưng thực tế không phải vậy, vì lúc này chúng ta sân,
khi khác lại không. Tâm con người, nguồn gốc cũng không hẵn là hoàn toàn
thiện, bằng chứng là nó luôn luôn thay đổi, buổi sáng tâm chúng ta nghĩ
chuyện lành và chiều lại tưởng việc ác. Cho nên, đức Phật dạy tâm thức của
chúng sanh là trung dung hay vô ký.
Hơn nữa, đâu là
lằn ranh phân chia giữa tánh thiện và tánh ác? Không có sự ngăn cách tuyệt
đối mà chỉ có tương đối. Các đức tính như lòng từ bi, tình thương và trí tuệ
tạo nên sự hạnh phúc lâu dài cho con người là thiện tánh. Lý do vì chúng ta
nhận thức rằng hạnh phúc là điều an lạc mà mọi người đều ước mong thành đạt.
Thực hành các tánh lành ấy sẽ giúp cải đổi chúng ta trở thành con người có
hạnh phúc và an lạc hơn. Do đó mà chúng ta gọi chúng là những thiện tánh.
Theo
giáo lý đức Phật, sở dĩ con người làm việc ác gây đau khổ cho kẻ khác là do
vô minh. Hành động vô minh hay nhận thức sai lầm này, nhờ tu tập thiền định
chúng ta có thể phát triển trí tuệ, giữ thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh
và do đó, vô minh sẽ được diệt trừ.
Tất cả chúng ta
ai cũng khao khát ước mong sống có hạnh phúc. Hạnh phúc hay đau khổ tùy
thuộc vào các hành động thiện hay ác, tốt hoặc xấu của chính mình. Tâm con
người bản gốc vốn hằng thanh tịnh. Do đó chúng ta có thể tu tập để tránh
không làm những điều ác mà tinh tấn làm các việc lành. Cho nên con người có
khả năng khắc phục, diệt trừ những sự khổ. Khi chúng ta hiểu rõ nguyên nhân
của nó (Tập Đế) là chân lý thứ hai trong bài pháp “Tứ Diệu Đế” mà đức Phật
đã dạy. Nhờ thấu triệt nguồn gốc gây nên sự khổ, con người mới tìm cách đoạn
dứt nó (Diệt Đế) là chân lý thứ ba, và cuối cùng đi theo con đường tu tập
đức Phật chỉ dạy để thoát khổ không còn luân hồi sanh tử hay đạt đến cảnh
giới Niết Bàn (Đạo Đế) là chân lý thứ tư trong Tứ Diệu Đế.
Khi hiểu rõ mục
đích giải thoát của mình, con người mới cố gắng tránh không làm những việc
ác. Muốn thành tựu trong công việc tu tập này, chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa
của sự khổ đau và phải tinh tấn không ngừng với ý chí dũng mãnh quyết tâm
diệt trừ nổi đau khổ ấy.
Để đạt được kết
quả, điều quan trọng là chúng ta nên tập buông xã. Thứ nhất, chúng ta cố
gắng tránh xa các thú vui dục lạc trong cuộc đời này, và thứ hai là nguyện
từ bỏ mọi đam mê ái dục trong kiếp sau. Chẳng hạn khi chúng ta nghĩ đến
những cảnh khổ sanh, già, bệnh, chết hiện tại cũng như nỗi khổ sẽ bị đọa vào
cảnh giới lục đạo như địa ngục, quỷ đói và súc sanh v…v…trong đời sau, thì
chúng ta mới cố gắng tập hạnh buông xả hay có ý muốn tu hành để giải thoát
vòng sinh tử luân hồi. Nhằm thực hiện ý chí muốn xa lìa các thú vui dục vọng
trong đời này các bạn cần nghĩ đến sự phúc lạc và giải thoát ở kiếp tương
lai. Hoặc quý vị có thể ngăn ngừa tránh không hành động các việc xấu ác bằng
cách cố gắng làm mười điều lành (thập thiện).
Muốn thành tựu
trong công đức tu tập, các bạn cũng cần có đức tánh tự tin vào khả năng giác
ngộ của chính mình. Với sự giúp đỡ của xác thân và trí tuệ của con người,
các bạn có thể thực hiện và thành tựu mọi việc nếu quý vị biết cố gắng tinh
tấn tu tập. Giáo lý Bồ Tát Thừa dạy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh
hay khả năng tu hành thành Phật. Lời giáo huấn này của đức Từ Phụ Bổn Sư đã
giúp chúng ta tăng trưởng niềm tự tin vào công phu tu học của mỗi cá nhân để
giải thoát luân hồi sanh tử.
Một số người,
đặc biệt ở Tây Phương đã thiếu đức tánh tự tin nơi mình. Tôi nghĩ đó là điều
rất sai lầm và tai hại. Chúng ta có cái thân này với khối óc và trí tuệ. Nếu
chúng ta biết nương vào nó dùng làm phương tiện để tu tập thiền định thì
chúng ta có thể phát triển chân tâm của mình trở nên thánh thiện. Với thời
gian và đức tánh kiên nhẫn, quý vị sẽ thành tựu công đức tu hành nhằm cải
đổi nội tâm của mình từ xấu thành tốt và ác trở nên lành; cho nên dù ngoài
đời hay trong đạo, tự tin vẫn là đức tánh rất cần thiết đối với chúng ta.
Ngoài ra, lòng
từ bi cũng là một yếu tố quan trọng. Nó giúp chúng ta mở rộng tình thương
cứu giúp mọi chúng sanh. Với tâm từ bi, chúng ta dễ dàng kết thân làm bạn
với con người, thú vật và côn trùng. Khi chúng ta có tâm hồn vị tha chúng ta
sẽ có nhiếu bạn bè thân hữu. Trái lại với tâm xấu ác, hẹp hòi ích kỹ, các
thiện hữu tri thức sẽ lánh xa chúng ta. Dù kẻ khác đối xử với bạn không tốt,
nhưng bạn cứ vui vẽ niềm nở với họ, cuối cùng họ sẽ thay đổi mến thương bạn.
Thêm nữa, sự
nhận thức rõ về lời Phật dạy mọi chúng sanh đều có Phật tánh hay đời này
sanh ra được làm thân người là một điều vô cùng phước báu cũng như cuộc sống
là vô thường sẽ giúp chúng ta nỗ lực tinh tấn tu hành để mong được giải
thoát luân hồi sanh tử.
Khi đề cập đến
tình thương, nó gồm có hai loại: vị kỷ và lợi tha. Con người nếu chỉ biết
yêu thương mình, tự thấy mình là quan trọng hơn kẻ khác và không bao giờ
hành động lợi ích cho tha nhân, đó là thứ tình thương ích kỹ, chẳng mang lại
hạnh phúc an lạc cho bất cứ ai. Trái lại, tình yêu lợi tha là tình thương
rộng rãi bao la. Đó là lòng từ bi của chư Bồ Tát muốn cứu độ tất cả chúng
sanh.
Với tâm đại bi, các
ngài thường xuyên liên tục hành động giúp đỡ mọi người không chỉ trong nhiều
ngày tháng hay năm mà là thời gian vô tận; không phải trong một kiếp, hai
hay ba kiếp mà là hàng triệu, vô lượng kiếp. Chư vị Bồ Tát không bao giờ
chán nãn hay mệt mõi khi phải phục vụ cứu giúp chúng sanh trong thời gian
dài vô hạn như thế; cũng không thối tâm khi nghĩ tới số lượng chúng sanh
nhiều không kể xiết mà các ngài cần phải cứu độ cho họ. Nếu không có tâm từ
bi rộng lớn thì không ai có thể hành động lợi tha cứu giúp chúng sanh phi
thường như vậy.
Lòng ham muốn
của con người cũng có hai loại: xấu và tốt. Khi chúng ta có lòng tham vị kỹ,
chỉ biết nghĩ đến điều lợi cho riêng mình mà gây tai hại khổ đau cho kẻ
khác, thì lòng ham muốn đó, theo đức Phật dạy là một hành động bất thiện.
Trái lại, khi chúng ta biết hướng lòng ham muốn của mình vào việc cứu giúp
mang lại an lạc hạnh phúc cho tha nhân và tất cả chúng sanh thì sự ham muốn
đó là một hành động lành mà con người nên cố gắng thực hiện.
Tiếp theo,
chúng ta cần suy nghĩ đến cuộc đời là vô thường. Ở đây cũng có hai trường
hợp. Trước nhất là sự biến đổi mà chúng ta có thể nhận biết rõ ràng như
thình lình một người thân của chúng ta qua đời hay bị chết vì tai nạn bất
ngờ. Thứ hai là sự thay đổi vi tế, chậm chạp trong từng giây phút mà với mắt
trần chúng ta không nhận thấy được. Ví dụ như chiếc hoa trước mặt tôi đây
đang biến đổi từ từ trong phút giây để rồi cuối cùng nó sẽ héo tàn, hủy diệt.
Nhờ trí tuệ soi sáng, chúng ta nhận thức được bản chất của sự sống là vô
thường, do vậy mà tâm chúng ta lúc nào cũng an vui tự tại giải thoát trước
mọi cảnh bể dâu, thay đổi của cuộc đời.
Bây giờ hãy suy
nghĩ, xét đến thân thể và cuộc sống của chúng ta. Theo quan điểm của Phật
giáo, chúng ta sẽ không có sự an lạc hạnh phúc vĩnh cữu, chừng nào mà ý nghĩ,
lời nói và việc làm của chúng ta còn bị chi phối, khống chế bởi vô minh. Nếu
vô minh chưa dứt trừ được thì Niết Bàn và giải thoát sẽ không có. Như vậy là
chúng ta sẽ mãi mãi bị luân hồi sinh tử, lên xuống vào ra trong ba đường ác
đạo.
Để chấm dứt mọi
khổ đau, chứng đắc Niết Bàn, đạt đến cảnh giới hoàn toàn an lạc hạnh phúc
theo lời đức Phật dạy, chúng ta cần phải nổ lực tinh tấn tu tập, phá trừ vô
minh, đoạn diệt phiền não. Ngoài ra chúng ta cũng nên mở rộng tình thương,
thực hành hạnh bố thí, luôn luôn nghĩ đến sự an lạc, phúc lợi và tìm cách
cứu giúp hết thảy mọi chúng sanh vượt thoát bể khổ trầm luân. Nói khác là
chúng ta đã thể hiện được tâm Bồ Đề (Bodhicitta), hành Bồ Tát Đạo nhằm mong
hướng đến quả vị giác ngộ và thành Phật.
Khi phát triển,
thực hành được tâm Bồ Đề quý báu này, con người bất luận là theo tôn giáo
nào, họ đều trở thành bậc thánh thiện có lòng từ bi bao la, luôn luôn muốn
cứu giúp mọi người trong xã hội hết khổ được vui. Theo Phật giáo, sau khi
chúng ta phát Bồ Đề Tâm, lòng con người trở nên thanh tịnh, các tánh xấu ác
sẽ được diệt trừ để nhường cho những thiện tánh phát sinh. Với tâm lành đó,
hành giả chắc chắn sẽ được tái sanh vào cảnh giới an lạc trong kiếp tương
lai. Nói khác, đó là con đường hướng dẫn chúng ta đến sự hạnh phúc chân
chính, đích thực và vĩnh cửu.
|