ALBERT EINSTEIN VÀ ĐỨC ĐẠT LAI
LẠT MA
Nguyên tác Anh ngữ: Rasoul
Sorkhabi
Việt dịch:
Hoà Thượng Thích Trí Chơn

Năm 2005 đánh dấu kỷ niệm năm sinh nhật lần thứ
70 của đức Đạt Lai Lạt Ma. Liên Hiệp Quốc cũng tuyên bố năm 2005 là năm Vật
Lý của thế giới và người đã được vinh danh là ông Albert Einstein, nhà đại
khoa học phát minh ra Thuyết Tương Đối năm 1905 (cách nay 100 năm) đã từ
trần năm 1955 (đúng 50 năm trước). Đây là cơ duyên thuận lợi để chúng ta tìm
hiểu tại sao có sự trùng hợp, gặp gỡ giữa hai nhân vật lịch sử vĩ đại này
trong thời đại của chúng ta hôm nay, một nhân vật là khoa học gia Tây Phương
nổi tiếng và người kia là vị lãnh đạo Phật Giáo mà khắp thế giới đều tôn
kính, đã nêu lên một hình ảnh ý nghĩa về sự hợp nhất giữa khoa học và tôn
giáo.
Nhiều năm qua, nhà khoa học
Albert Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đã ảnh hưởng thu hút tôi rất nhiều.
Khi đọc tiểu sử và tác phẩm của hai nhân vật này mà tôi nhận thấy có nhiều
sự tương đồng ý nghĩa về cá tính và hoạt động của họ đã chiếu sáng trên mối
quan hệ giữa lý trí và tinh thần mà cả hai lãnh vực đều cần thiết cho xã hội
và đời sống con người.
Phật Giáo lẫn Khoa Học chủ trương
người đi tìm đạo lý hay các định lý khoa học cần dựa vào trí tuệ và kinh
nghiệm của chính bản thân họ. Nhà tôn giáo lẫn khoa học không thể tin tưởng
một cách mù quáng. Mọi lý thuyết trình bày chỉ có giá trị khi được chứng
nghiệm bằng sự tu tập của vị tu sĩ và chứng minh cụ thể của nhà khoa học.
Đặc biệt trong các bài viết cũng
như thuyết giảng của đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà khoa học Einstein, là những ý
tưởng đều xuất phát từ tâm thức và kinh nghiệm bản thân của họ. Khi viết bài
này thì cuốn sách đầu tiên để trên bàn tôi đang đọc là tác phẩm “Phật
Giáo Tây Tạng và Chìa Khoá Dẫn Đến Trung Đạo” (The Buddhism of Tibet and
the Key to the Middle Way) do Tenzin Gyatso (tức đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ
14) viết ấn hành năm 1975. Tôi được tặng cuốn sách này vào năm 1982 khi tôi
và vợ tôi là Setsuko từ Nhật Bản lần đầu tiên đến Ấn Độ gặp ngài tại thành
phố Dharamsala. Tôi cũng đã được đọc tác phẩm của Einstein: “Đại Cương và
Đặc Biệt Thuyết Tương Đối” (Relativity: The Special and the General
Theory) ấn hành năm 1952.
Hai cuốn sách đều mang tính cách
chuyên môn và cả hai tác phẩm đều chịu ảnh hưởng tư tưởng của những người đi
trước, nhưng điều đặc biệt thú vị là bút pháp của họ đều giống nhau - giải
thích các chủ đề khó hiểu bằng lối diễn đạt rõ ràng, chính xác với ngôn ngữ
bình dị và đã trình bày được ngay chính tư tưởng của hai tác giả. Mặc dù sự
liên hệ giữa khoa học và tôn giáo là một đề tài hóc búa, phức tạp và gay go,
nhưng cả hai khoa học gia Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đều phát biểu rằng,
tôn giáo và khoa học có thể hợp tác, chung sống và đóng góp lợi ích cho sự
tiến bộ, phát triển của xã hội con người. Tôn giáo và khoa học thuộc hai
lãnh vực kiến thức và thực hành khác nhau, tuy nhiên cả hai đều do nỗ lực
của con người và cần thiết cho sự thăng hoa cuộc sống nhân sinh.
Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là
nhà tôn giáo theo trào lưu chính thống, duy trì lòng tin cổ truyền vào kinh
điển mà ngài cũng đề cao giá trị của nền khoa học hiện đại và tin tưởng rằng
tất cả các truyền thống tôn giáo khác nhau đều giúp ích cho nhân loại. Ông
Einstein không phải là nhà toán học thiển cận, không nghĩ đến sự phát triển
tinh thần và đời sống tâm linh. Trong tác phẩm: “Những năm cuối cùng của
đời tôi” (Out of My Later Years), ấn hành năm 1950, tiên sinh viết: “Tất
cả các tôn giáo, nghệ thuật và khoa học là những cành nhánh chung của một
thân cây. Những khát vọng này đều nhằm hướng đến sự thăng hoa đời sống của
kiếp người, giúp con người vượt khỏi thể giới thuần tuý vật chất và hướng
dẫn cá nhân đến sự tự do và giải thoát”.
Trong cùng cuốn sách trên,
Einstein cũng xác nhận rằng khoa học thực sự đã giúp cho mục tiêu của tôn
giáo, vì khoa học đã dạy cho chúng ta hiểu biết về sự hoà hợp, tương quan và
tương duyên của thế giới cũng như kiến thức khoa học về vũ trụ bao la huyền
bí này: “Mỗi ngày hằng trăm lần tôi tự nhắc nhở để thấy rằng đời sống nội
tâm và ngoại giới của tôi được xây dựng căn bản trên sức lao động của những
kẻ khác và tôi phải cố gắng đáp đền trả ơn lại cho họ, những người mà tôi đã
và đang nhận sự giúp đỡ”. Đây là những lời nói của Einstein. Chia xẻ với
ý tưởng này, đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu sự tương quan tương duyên phụ
thuộc vào nhau của vạn vật, con người và các biến cố xảy ra trên thế gian là
ý niệm căn bản của nền khoa học hiện đại và tư tưởng Phật Giáo.
Trong lời phát biểu khi nhận giải
Nobel Hoà Bình, đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Chúng ta tuỳ thuộc vào nhau
trong mọi sinh hoạt của đời sống. Chúng ta không thể tồn tại khi sống tách
rời khỏi xã hội và không biết gì về các sự việc xảy ra bên ngoài cộng đồng
của nhân loại. Khi gặp những khó khăn, chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau cũng
như nên chia xẻ nguồn vui của chúng ta cho những kẻ khác”. Về mặt triết
lý, lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ảnh lý “Nhân Duyên Sinh” của
Phật Giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên dạy chư Tăng không nên có tâm ích kỷ và
đắm say của cải vật chất. Ngài đã từng nói: “Tôi chỉ là một nhà sư tầm
thường”. Howard Cutler, người cùng chung với ngài viết tác phẩm “Nghệ
Thuật Đạt Đến Hạnh Phúc” (The Art of Happiness) bảo rằng đức Đạt Lai Lạt
Ma không biết cuốn sách đó đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất (bestseller)
tại vùng Bắc Mỹ.
Ông Einstein cũng có tâm hồn vị
tha hay giúp đỡ mọi người. Một trong những tiểu luận nổi tiếng của ông nhan
đề “Thế Giới như Tôi Nhìn Thấy Nó” (The World As I See It) ấn hành năm 1931,
Einstein đã viết: “Tôi tin rằng một đời sống giản dị không xa hoa cầu kỳ
là rất tốt, hữu ích cho mọi người cả hai phương diện thể xác lẫn tinh thần.
Ba mục tiêu mà nỗ lực của con người nhắm đến là của cải, tiền bạc và giàu
sang, đối với tôi trở thành vô nghĩa”. Ông đã thực hành những điều ông
nói. Chẳng hạn, Einstein đã dùng hết số tiền 30.000 (ba chục nghìn) đô-la
ông được thưởng trong giải Nobel Vật Lý năm 1921 để giúp đỡ cho bà vợ đầu
tiên và mấy đứa con của bà, mặc dù lúc bấy giờ ông đã lập gia đình với người
khác.
Einstein đoạt giải Nobel Vật Lý
năm 1921, và đức Đạt Lai Lạt Ma được giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Hơn nữa,
Einstein cũng là nhân vật tích cực vận động cho nền hoà bình thế giới; yêu
cầu huỷ diệt các loại võ khí nguyên tử cũng như đòi hỏi quyền làm người, tự
do và dân chủ phải được thực hiện tại nhiều quốc gia. Cuộc đời của ông luôn
luôn tranh đấu chống bạo động, chiến tranh, chủ nghĩa phát xít và kỳ thị
chủng tộc. Vị anh hùng chính trị mà Einstein tôn sùng nhất là Thánh Gandhi
của Ấn Độ. Tháng 04 năm 1955, cùng với đại triết gia người Anh, Bertrand
Russell, cả hai ông đã phổ biến một bản tuyên ngôn chung, kêu gọi các nhà
lãnh đạo trên thế giới nên giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị bằng
phương pháp hoà bình.

Gần đây trong một cuộc phỏng vấn,
tôi có nghe đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời cho biết rằng nếu có thể ngài phát
nguyện vào ở một ngôi chùa và sẽ dành hết thì giờ cho việc tu thiền. Điều
này khiến tôi nhớ lại lời ông Einstein bảo rằng: “Công việc của người
trông coi ngọn hải đăng thực lý tưởng cho nhà khoa học, vì họ có nhiều thì
giờ rãnh để suy nghĩ và làm việc”. Nơi khác, tiên sinh Einstein ghi nhận
rằng cuộc đời của ông được phân chia thành giữa “các phương trình và
chính trị” nhưng “các phương trình thì sẽ vĩnh viễn tồn tại lâu dài”.
Cả hai ông Einstein và đức Đạt
Lai Lạt Ma đều mất tổ quốc. Năm 1933 Einstein trốn thoát chế độ Phát Xít Đức
Quốc Xã sang định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1959, Trung Cộng đánh chiếm xâm lăng
Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ nước trốn qua tị nạn ở Ấn Độ. Tôi nghĩ kinh
nghiệm cuộc sống bản thân của mỗi người này đã giúp cho cả hai nhân vật
(Einstein trong cộng đồng người Do Thái và đức Đạt Lai Lạt Ma trong xã hội
các Phật tử Tây Tạng), khi ở xứ người, nhận thấy rõ giá trị của sự đóng góp
về khoa học, tôn giáo cũng như lịch sử dân tộc của họ vào các nền văn hoá đa
dạng của nhân loại trên thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường bảo
rằng cuộc sống tị nạn lưu vong đã giúp ngài có cơ hội tốt để gặp gỡ, tiếp
xúc với mọi người đủ thành phần tại nhiều quốc gia và nhờ đó mà ngài đã nhận
thức được rằng: “Tất cả chúng ta ai cũng muốn sống có hạnh phúc chứ không
thích khổ đau”.
Einstein sinh năm 1879 trong một
gia đình Do Thái tại Đức quốc. Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời năm 1935 trong một
gia đình nông dân tại quận Amdo ở Tây Tạng. Tiểu sử của hai nhân vật hoàn
toàn khác nhau, nhưng tại sao chúng ta nhận thấy có nhiều điểm tương đồng về
cá tính và hành động giữa hai con người đặc biệt này? Câu trả lời của tôi là
vì cả ông Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma đều đã sống vượt lên trên những
thành kiến, cố chấp về tôn giáo cũng như các chủ nghĩa phát xít, quốc gia và
duy vật v.v…
Trái lại cả hai đã sống, hành
động vì nền hoà bình thế giới, tình yêu thương nhân loại, và phục vụ cứu
giúp tất cả mọi người với tấm lòng vị tha. Trong bài nói chuyện với các sinh
viên trường Cal Tech năm 1931, Einstein đã phát biểu: “Tôn giáo và khoa
học có thể cùng chung đóng góp cho lợi ích của con người”.
Các giải Nobel đã trao tặng cho
khoa học gia Einstein và đức Đạt Lai Lạt Ma là biểu tượng cho hai đỉnh cao
của tình nhân loại và trí tuệ con người mà hai đại nhân vật lịch sử này đã
thành tựu đạt tới qua những phương cách hành động khác nhau. Và từ đỉnh cao
đó, ánh sáng rực rỡ của tình thương và sự hiểu biết tuyệt vời của con người
đã chiếu toả xuống khắp vạn vật ở trần gian.
Trích dịch từ tạp chí Phật Giáo “Mandala”
số tháng 6 & 7 năm 2005.
Ghi chú của dịch giả:
Rasoul Sorkhabi là giáo sư tại Học Viện Nghiên Cứu Năng Lượng và Khoa Địa
Chất thuộc Đại Học Utah (Salt Lake City), nơi ông đang sống với người vợ
Nhật và cô con gái. Giáo Sư đã thực hiện chương trình nghiên cứu rộng rãi về
địa chất ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas). Bài viết gần đây của giáo sư
là “Einstein và Tâm Hồn người Ấn Độ: Tagore, Gandhi và Nehru” đăng trên tạp
chí “Current
Science” do viện
Hàn Lâm Khoa Học Ấn Độ (Indian
Academy of Science) ấn hành.

|