HOÀ THƯỢNG THÍCH
HOÀN QUAN
Khai Sơn Chùa Khánh Vân, Quận
11 - Sài Gòn
Môn Đồ Pháp Quyến
I-THÂN THẾ :
Hoà Thượng thượng HOÀN hạ QUAN,
thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN, Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG, Pháp
hiệu THÍCH HOÀN QUAN.
Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu
Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư
Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Song thân của Ngài là Phạm Công
Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được
6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
II-XUẤT GIA HỌC ĐẠO :
Cố Đại lão Hoà thượng vốn sinh ra
trong gia đình có truyền thống Phật giáo lâu đời. Tổ khảo của Ngài là Đệ ngũ
tổ, Tổ đình Sắc Tứ Thiên Ấn, nơi đây là đệ nhất danh lam tỉnh Quảng Ngãi.
Ngài Đệ Ngũ tổ Thiên Ấn hiệu là Hoằng Phúc, khai sơn Tổ đình Sắc Tứ Quang
Lộc. Do vậy, lúc 8 tuổi Ngài về Tổ đình Thiên Ấn ở với Hoà thượng Diệu
Quang. Đệ lục tổ Tổ đình Thiên Ấn là Cậu ruột, được Ngài Lục tổ Diệu Quang
nuôi dạy 2 năm, nhưng chưa thế phát Quy y, vì lúc đó Ngài còn nhỏ.
Trong dịp Hoà thượng Khánh Ngọc
từ miền Nam về thăm quê hương Quảng Ngãi, thân sinh của Ngài gởi cho Hoà
thượng Khánh Ngọc nhờ dẫn vào Nam gởi cho Sư cụ Khánh Anh, hiện đang Trụ trì
Tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, nhưng vào đến nơi thì Hoà
thượng Khánh Ngọc giữ ở với Hoà thượng tại Chùa Long Phước- Cái Vồn. Rồi ở
với Hoà thượng Huyền Khải ở Cái Răng- Cần Thơ. Vì vậy mà Ngài chưa được đến
diện kiến và thọ học với Sư Cụ Khánh Anh.
Trong thời gian ở 2 ngôi Chùa
trên, Hoà thượng phải chấp lao phục dịch rất cực nhọc, lại không được học
hành. Trong khi đó thì Hoà thượng có chí muốn học hành để trở thành người
hiểu biết. Do vậy, vào một đêm đen Hoà thượng đã bỏ trốn, Ngài tìm đến Sư Cụ
Khánh Anh hiện đang Trụ trì tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn. Sau khi trình
bày tự sự và thổ lộ ý chí muốn xuất gia tu học. Hoà thượng được Tổ chấp
thuận và thế phát xuất gia, ban Pháp danh là Như Cụ Thiện, năm ấy Ngài tròn
15 tuổi.
Dù đã là 15 tuổi, nhưng vẫn chưa
được học hành. Do đó, sau khi xuất gia Hoà thượng được tổ Khánh Anh hết lòng
dạy dỗ và Cố Hoà thượng Thiện Hoa là Sư huynh đã dạy Việt văn cho Hoà
thượng. Khi Hoà thượng đọc được chữ Việt thì rất mừng. Và từ đó Hoà thượng
theo học hai chương trình: Nội điển và Ngoại điển.
Năm 1942 Tổ Khánh Anh cho Ngài
thọ giới Sa Di và cho Pháp tự là Giải Toàn Năng.
Năm 1946 Sư cụ đưa Hoà Thượng lên
Sài gòn ở Chùa Ứng Quang, theo học chương trình Sơ đẳng Phật học.
Năm 1950, khi Phật Học Đường Nam
Việt- Chùa Ấn Quang thành lập, do Hoà thượng Thiện Hoà làm Giám đốc. Hoà
thượng đã cùng quý Hoà thượng Thích Huyền Vy, Hoà thượng Thích Từ Thông, Hoà
thượng Thích Thanh Từ, Hoà thượng Thích Quảng Long, Hoà thượng Thích Minh
Cảnh .v.v…theo học chương trình Trung đẳng và Cao đẳng Phật học.
Năm 1955 Hoà thượng thọ Cụ túc
giới ở Đại giới đàn được tổ chức tại Tổ đình Ấn Quang, do Hoà thượng Thích
Đôn Hậu làm đàn đầu, với Pháp hiệu là Thích Hoàn Quan.
Song song với chương trình Phật
học, Hoà thượng còn theo học chương trình thế học tại trường Văn Lang – Sài
gòn cho đến khi tốt nghiệp Tú tài.
III- HÀNH ĐẠO :
Khi tốt nghiệp Cao đẳng và Tú tài
toàn phần, thì sau đó Ngài đi dạy các Phật học Viện, đồng thời Ngài là Giáo
thọ sư Phật Học Đường Nam Việt. Năm 1960 Ngài làm Đốc Giáo trường Phật Học
Phước Hoà- Trà Vinh. Từ năm 1964 đến năm 1975, Hoà thượng là Giáo thọ sư của
các trường Phật học như: Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Huỳnh Kim, Hải Tràng,
Dược Sư, Từ Thiền, Bồ Đề Lan Nhã.v.v… những Tăng Ni sinh thọ học với Hòa
thượng thuở ấy, hiện nay hầu hết là các bậc tôn túc ở các Tự viện, và đã là
Trụ trì, Giảng sư, Giáo thọ sư các trường Phật học, và có người hiện đã lên
hàng Giáo phẩm, đang giữ chức vụ quan trọng trong Giáo hội các tỉnh thành,
và các ngành các cấp trung ương giáo hội.
SỰ NGHIỆP PHIÊN DỊCH :
Với nhân duyên đồng chơn nhập
đạo, sớm gặp được Minh sư, và sẵn có chủng tánh Đại thừa, nên Ngài đã có một
thứ Trí tuệ hơn người đang tiềm ẩn trong bậc chân tu, vốn đã có hoài bảo
“Thượng cầu Phật đạo - Hạ hóa chúng sinh”, và nhất là luôn nghĩ đến thế hệ
Tăng Ni mai hậu.
Vì thế, ngoài việc giảng dạy tại
các trường Phật Học Viện, Ngài còn trước tác, phiên dịch và biên soạn những
bổn Kinh- Luật- Luận rất có giá trị để lại cho hậu thế như sau:
1-
Về Kinh :
Ngài
đã dịch các bộ Kinh như: Thập Thiện Nghiệp Đạo, Bát Đại Nhơn Giác, Tứ Thập
Nhị Chương, Kinh Di Giáo, kinh Viên Giác…
2- Về Luật :
Dịch bộ Luật Trường Hàn gồm Tỳ
Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách… thành văn vần rất hay, làm cho hàng hậu học
dễ nhớ.
3- Về Luận :
Ngài đã dịch các bộ như: Tu Tập
Chỉ Quán Toạ Thiền Pháp Yếu, Hiển Mật Viên Thông Tâm Yếu Thành Phật, Tam
Thập Tụng luận…
4- Về Hán Văn
: Ngài đã soạn các bộ như: Giáo
trình Hán Văn - Văn Phạm cương yếu, Tân Học Quốc Văn… Các bộ Giáo trình Hán
Văn nầy Ngài đã biên soạn dạy cho Tăng Ni tại các Phật Học Viện, phần này
cho đến nay vẫn còn là “bản thảo” chưa in ấn lưu hành.
5- Về Nghi Lễ :
Ngài đã biên soạn tập “Nghi Lễ”
rất công phu và chi tiết, rất hữu ích cho lớp Tăng Ni trẻ cũng như rất thuận
tiện cho những ai có nhu cầu trong việc ứng phó đạo tràng, cũng có thể lấy
đây làm phương tiện để truyền bá Phật pháp.
Ngoài những bộ Kinh – Luật - Luận
và các Giáo trình đã được phiên dịch và biên soạn như đã nêu trên thật vô
cùng quý giá để lại cho đàn hậu tấn, Ngài còn mong muốn làm sao cho Tăng Ni
trẻ sau nầy có đủ tư liệu về Tam Tạng Thánh Điển bằng Việt ngữ, để nương
theo đó tu học. Những tác phẩm của Ngài đã được Ban Văn Hóa Thành hội Phật
giáo tổng họp lại thành bộ Phật Tổ Ngũ Kinh, đã được xuất bản và tái bản
nhiều lần. Hiện nay chư Tăng Ni và Phật tử trong nước cũng như nước ngoài,
xem Bộ Kinh nầy như bộ sách gối đầu giường trong việc tu và học.
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NGÔI CHÙA :
Vào năm 1964 Ngài đã khai sơn
Chùa Khánh Vân với biết bao nhiêu công sức và muôn vàng khó khăn gian khổ,
vì nơi đây trước kia là một vũng sình. Ngôi chùa Khánh Vân lúc ấy đựơc che
tạm lá và tôn, phên tre vách lá, Thầy trò ẩn dật nương náu tu hành. Năm
1968, chùa bị hoả hoạn chiến tranh. Rồi từ đó, Ngài vừa đi dạy vừa nỗ lực
cùng với quý Thầy và Phật tử góp công sức khai móng để làm lại Ngôi chùa và
đã đổ được một tầng làm Chánh Điện tạm, nay là Giảng đường của chùa Khánh
Vân.
Do bận giảng dạy và phiên dịch
Kinh - Luật- Luận, cũng như chưa đủ nhân duyên để trùng tu ngôi chùa, nên
chùa Khánh Vân vẫn là ngôi chánh điện tạm. Cho đến ngày 06 – 02 – 1994 ( năm
Giáp Tuất ) nhân duyên đã hội đủ, Ngài đã cho khởi công đặt đá Đại
trùng tu ngôi chùa. Do xuất thân từ Thiên Ấn - Quang Lộc tổ đình, nên khi
Ngài khánh thành ngôi Chùa Khánh Vân, được Chư sơn Thiền đức tỉnh Quảng Ngãi
kính tặng bức Hoành phi sơn son thép vàng, trong đó đặc biệt có hai câu: “Thiên
Ấn kế thừa hoằng pháp nghiệp - Khánh Vân thiết lập độ sanh cơ.”
Khi công việc Phật sự Đại trùng
tu ngôi Bảo điện được hoàn thành, thì cũng chính là lúc sức khoẻ của Ngài
bắt đầu yếu đi. Chẳng những thế, Ngài lại lo lắng khi nghĩ đến việc phải tìm
người lo cho ngôi Tam bảo, gánh lấy trách nhiệm Trụ pháp vương gia, trì Như
lai tạng để truyền trì mạng mạch, tục diệm truyền đăng, tiếp dẫn hậu lai,
báo Phật ân đức, làm cho Tam bảo được xáng lạng huy hoàng. Vì thế, trong
thời gian đó Ngài đã mời
Thượng toạ Thích Nguyên
Ngôn, Người là Giảng sư Hoằng pháp TW.GHPGVN, Giáo thọ sư Trường
Trung cấp Phật học, Sàigòn về đây để thay Hoà thượng làm Trụ trì. Ngày 12-
11- năm Bính Tý (1996) Ban Trị Sự THPG.TP đã Bổ nhiệm Thượng toạ Thích
Nguyên Ngôn chính thức đăng quang nhậm chức Trụ trì. Thượng tọa Trụ trì
được mười năm, đã gánh vát cho Hòa thượng rất nhiều Phật sự tại bổn tự.
Những tưởng Thượng tọa sẽ tiếp tục lâu dài, nào ngờ đâu Thượng tọa cũng đã
sớm treo bình theo Chư Tổ quảy dép quy Tây.
Sau khi đã có người lo cho ngôi
Tam bảo, Hoà thượng tuy tuổi già và sức khoẻ mỗi ngày mỗi kém đi, nhưng khi
nghĩ đến tiền đồ của Phật pháp, và nhất là thế hệ Tăng ni trẻ sau này, nên
Hoà thượng đã quên đi tuổi già và bệnh tật, tiếp tục trước tác, biên soạn
và phiên dịch cho đến khi Ngài lâm bệnh nặng.
VI-VIÊN TỊCH
:
Gần 80 năm qua Hoà thượng đã
thuận thế hóa duyên để phụng sự Chánh pháp, lợi lạc quần sinh, để lại cho
hậu thế một gia tài Phật pháp vô cùng quý giá trong sự nghiệp biên soạn,
trước tác và phiên dịch của Ngài. Trước đó, Sức khoẻ Hoà thượng rất tốt,
tỉnh giác, đầy năng lực, nên thời gian gần 10 năm Hoà thượng vẫn tiếp tục
điều hành công việc của Chùa trên cương vị là Viện chủ, và tiếp tục hiệu
đính các tài liệu giáo khoa Kinh- Luật- Luận- Hán Văn, mà Hoà thượng đã dày
công phiên dịch, biên soạn hơn ba thập niên qua để làm tài liệu cho Tăng Ni
hậu thế. Ngày 18/ 11/ 1995, Hoà thượng lâm trọng bịnh, tuy đã vượt qua, song
sự đi lại không được bình thường như trước.
Thế rồi, đến ngày 23 tháng 6 năm
Ất Dậu Hoà thượng bị cơn bịnh cũ tái phát dữ dội có phần nguy kịch, mặc dầu
môn đồ Pháp quyến và Giáo hội cùng các Y-Bác sĩ ở Bệnh viện đã tận tình
chăm sóc. Nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã xả báo an tường thâu thần viên
tịch vào lúc 15giờ 15 phút ngày 17 tháng 6 năm Ất Dậu (nhằm ngày 22 tháng 07
năm 2005)
Trụ thế : 78 năm, 58 Hạ lạp
Giáo hội và Môn đồ Pháp quyến từ
đây vĩnh viễn vắng bóng một bực Tôn sư khả kính. Từ nay huyễn thân Ngài trở
về với tứ đại, nhưng hình ảnh và cuộc đời Ngài mãi mãi là tấm gương chói
sáng cho Tăng Ni và Tín đồ quy ngưỡng.
|