NHÀ SƯ 40 NĂM CHỞ ĐẤT RA ĐẢO XÂY CHÙA
Phạm Ngọc Dương

Suốt hơn 40 năm qua, ngày nào Hòa thượng Thích
Viên Mãn cũng chở nước và đất từ đất liền ra đảo,
rồi gánh nước trên vai, tay chống gậy, tay kia
giữ quai thùng, bàn chân trần dẫm lên phiến đá
nóng bỏng chuyển đến nơi cần thiết...
Hoàng
hôn đổ bóng xuống bãi biển Nha Trang. Mặt trời
lơ lửng cuối chân trời như một quả cam hồng lớn.
Du khách phóng tầm mắt ra phía biển cả mênh mông.
Những tia nắng cuối cùng chiếu vào đảo, sắc đá
ánh lên màu đỏ rực kỳ ảo. Vì vậy, người ta gọi
hòn đảo đó là đảo Hòn Đỏ.
Trên
hòn đảo đó có một ngôi chùa mang tên Từ Tôn.
Ngôi chùa đó không có gì đặc biệt ngoài việc nó
ở giữa biển, nhưng cuộc đời của vị Hòa thượng
dưới mái chùa đó là một câu chuyện kỳ lạ, đầy
nghị lực của một con người.
Cảnh Tiên Giữa Biển
Hòn
đảo đỏ rực mỗi buổi chiều, trồi lên giữa sắc
biển xanh bao la, đẹp như một bức tranh. Du
khách dạo trên bãi biển cũng phải dừng chân ngắm
nhìn vài phút thiên thần đó.
Chiếc
ghe máy nổ phành phạch cưỡi trên đầu những con
sóng bạc, rồi lựa sóng tìm chỗ đỗ để chúng tôi
bước chân lên đảo Hòn Đỏ. Nhìn từ xa, chỉ thấy
ánh đá đỏ rực, nhưng càng tiến lại gần, càng
thấy xanh ngắt màu cây lá lẫn trong kẽ những
khối đá khổng lồ to bằng những ngôi nhà cao tầng
nằm lăn lóc.

HT Thích Viên Mãn |

Đảo
Hòn Đỏ |
Bước
lên đảo từ phía Tây, vạch những lùm dây gai, cả
một vườn bằng lăng hiện ra. Nổi bật là một cây
bằng lăng tím ngát hoa, mọc trong một cái thuyền
thúng. Chiếc thuyền thúng này là phương tiện mà
Hòa thượng Thích Viên Mãn dùng để chở đất và
nước từ đất liền ra đảo. Ông trồng cây vào chiếc
thuyền này để làm kỷ niệm. Cả vườn xoài ẩn sau
những khối đá lớn tránh gió.
Đặc
biệt nhất là cây mai 6 nhánh vươn cao mà theo
Thầy Chúc Minh thì cây mai này đã ở trên đảo từ
khi Thầy có mặt. Cây mai mọc trong kẽ đá và chỉ
ra hoa đúng vào ngày rằm tháng tư. Theo các nhà
khoa học, đây có thể là giống mai rừng, được các
loài chim di trú mang đến.
Con
đường xếp đá quanh co, dưới những tán cây hoa
đại, sứ, thông, huyết giác, thiên tuế... dẫn du
khách đến ngôi chùa Từ Tôn. Xung quanh chùa có
rất nhiều khu vườn hoa với những giò phong lan
lúc lỉu, những bụi cúc vàng rực rỡ. Ngôi chùa Từ
Tôn khá nhỏ và cực kỳ đơn sơ.
Tuy
nhiên, trước chùa có một quả đại hồng chung với
những họa tiết bằng chữ Phạn rất sắc nét. Trên
chuông khắc nhiều bài thi kệ “nguyện tiếng
chuông này siêu pháp giới”.
Vườn
tượng Lâm Tì Ni ở trước chùa với 13 bông sen,
diễn tả huyền thoại khi Đức Phật ra đời đã biết
đi, mỗi bước để lại một bông sen dưới chân Ngài.
Phía Đông hòn đảo, là tôn tượng Bồ Tát Quán Thế
Âm đứng trên Nghênh Phong Đài nhìn ra biển lớn
“độ” cho những sinh linh kiếm sống trên đầu sóng
dữ. Dưới chân tượng, một bãi đá tải ra biển với
hai bên tả hữu như thế thanh long, bạch hổ.
Bên
trái có Hòn Án, Hòn Thư như một con triện và một
khối sách. Chen vào giữa là bàn cờ tiên, nơi
ngày xưa các ông tiên thường xuống đánh cờ. Sau
Hòn Thư là “Hòn Chị, Hòn Em” đang nâng đỡ nhau.
Phía dưới những khối đá lớn là những mảnh “vườn
tiên”, với vườn nhãn, vườn thông, vườn hoa giấy,
vườn bồ đề...
Trong
những khu vườn bồng lai trên rặng đá đó, tiếng
chim ca ríu rít xen với tiếng sóng vỗ hườm đá ì
oạp. Du khách có thể ngồi trên những tảng đá
sạch sẽ ngắm biển, đón gió mỗi chiều trong tâm
trạng không còn lưu luyến gì đến cảnh hồng trần.
Thật là một cảnh Phật ở trần thế!
Khách
tham quan được chiêm ngưỡng cảnh tiên giữa biển
cả đều không biết rằng, mấy chục năm trước, hòn
đảo này chỉ có những khối đá khổng lồ, không
thấy bóng cây, ngọn cỏ. Vị Hòa thượng gầy gò
chiều chiều ngồi trước hiên chùa ngóng ra biển,
nhìn hành vân lưu thủy, không mấy khi nói cười
chính là người đã cống hiến tất cả sức lực và
tuổi trẻ, đằng đẵng 48 năm lao động, chở đất,
chở nước từ đất liền ra đảo mới có được một cảnh
tiên để lại cho đời như ngày hôm nay.
48 Năm “Chiến Đấu” Với Thiên Nhiên
Đã 79
tuổi, dáng người nhỏ nhắn, gầy gò, song hàng
ngày Hòa thượng Thích Viên Mãn vẫn cùng các đệ
tử dọn cỏ, tưới cây trên đảo. Cả đời ông làm
việc cực nhọc, máu và mồ hôi đã đổ không biết
bao nhiêu xuống hòn đảo này, song trông ông
không toát lên vẻ khổ ải. Dáng đi vẫn nhanh nhẹn,
linh hoạt.
Ông
bảo, với ông, lao động chính là một dạng Thiền.
Các vị Thiền sư cũng đã đắc đạo trong khi lao
động tầm thường như giã gạo, gánh nước, chẻ củi...
Ông muốn, mỗi du khách khi bước chân lên hòn đảo
này đều cảm nhận thấy chất Thiền ở từng gốc cây,
ngọn cỏ.
Hòa
thượng Thích Viên Mãn sinh ra ở vùng đất nắng
gió Phú Yên, từ nhỏ đã đi tu khổ hạnh theo phái
Mật Tông tại chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa trên núi
Sơn Trung (Khánh Hòa). Đây là ngôi chùa rất nổi
tiếng, từng được Thái hậu Từ Cung, mẹ Vua Bảo
Đại qua lại nhiều lần. Bà từng trồng cây đại
trước chùa, đến nay vẫn còn.
Một
ngày đầu năm 1960, đứng trên đỉnh Sơn Trung nhìn
về hướng Đông, ông giật mình khi thấy ánh hồng
hình đóa sen rực lên giữa biển. Ông liền rời
núi, tiến về phía biển và thấy ánh hồng bao trùm
hòn đảo nhỏ dần biến mất khi mặt trời lặn xuống
bên kia đỉnh Sơn Trung. Thấy lạ ông tính chuyện
ra đảo tu tập.
Mặc
dù là Trụ trì chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa, song Hòa
thượng Thích Viên Mãn vẫn quyết chí ra đảo, vì
chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa du khách đến nhiều, phá
vỡ không gian tịnh tĩnh của chùa. Hơn nữa, ông
tu tập theo phái Mật Tông, nên cần không gian
tĩnh lặng tuyệt đối. Thế là tay gậy, tay bị với
những cuốn kinh, ông rời núi Trung Sơn, đi về
phía Hòn Đỏ.
Ngày
đó, cả khu vực còn hoang sơ. Hòa thượng men theo
ven biển đến bãi tha ma an táng những người đi
biển bị nạn. Cạnh bãi tha ma có 3 túp lều. Anh
Sáu Sài Gòn chèo thuyền đưa Hòa thượng ra đảo.
Nghe tâm nguyện Hòa thượng muốn ra đảo sống, anh
Sáu buồn cười.
Hàng
ngày đi biển qua hòn đảo, nhưng anh ít lên đảo,
vì trên đảo không có nước, không có cây xanh,
chỉ có những khối đá khổng lồ lổn nhổn nhô lên
từ đáy biển. Cả ngày đảo đá phơi mình dưới nắng
gắt khiến không gian trên đảo hừng hực nóng. Anh
Sáu bảo, nếu sống ở đảo một ngày, chắc cơ thể sẽ
biến thành... cá khô.
Hòa
thượng Thích Viên Mãn tạo một hốc đá thành hang,
căng bạt che làm nơi trú nắng, trú mưa, rồi chở
nước, lương thực ra dự trữ, chuẩn bị cuộc chiến
lâu dài với thiên nhiên khắc nghiệt. Công cụ lao
động của ông chỉ là một chiếc búa, một chiếc xà
beng và một chiếc thuyền mủng dùng để đi về.
Hàng
ngày, đều đặn từ 6 giờ sáng, khi mặt trời mới
nhô lên từ mặt biển, ông nhặt những tảng đá nhỏ
đổ vào hõm, hố, rồi dùng búa, xà beng đẽo gọt
những tảng đá to, để tạo mặt bằng. Chỉ riêng
công việc san lấp mặt bằng để dựng đủ một ngôi
chùa, ông đã mất đúng 5 năm làm việc cật lực,
ngày nào cũng như ngày nào, cứ đày lưng dưới
nắng từ sáng đến đêm khuya.
Hai
bàn tay ông chai sần vì vần đá. Khắp người loang
lổ vì nắng cháy, miệng khô rộp, da bong từng
mảng. Lao động nặng nhọc như vậy, nhưng mỗi ngày
Hòa thượng Thích Viên Mãn chỉ ăn duy nhất một
bữa, đúng vào giờ ngọ. Đồ ăn chính của ông cũng
rất đặc biệt, chỉ là các loại rong rêu mọc ở mép
đá như rong rau câu, rong đồng mứt, rong chân
vịt... mọc ở vách đá hoặc bị sóng biển hắt lên
vách đá từng mảng một.
Những
ngày ở đảo, tôi đã được Hòa thượng Thích Viên
Mãn mời bữa cơm chay với món rong rêu. Thú thực,
thứ rong này rất nhạt nhẽo, lại có mùi tanh,
đắng và chát, rất khó nuốt. Thấy mặt tôi hết co
lại giãn khi nhai rong, Hòa thượng bảo rằng,
trong lúc ăn, nếu lòng ta không nghĩ đến chất
ngon, vị ngọt thì miệng nhai nhánh rong đắng
cũng giống như nhai một cọng rau muống vậy. “Khi
ta chấp nhận sự khổ cực thì khổ cực sẽ vơi đi,
khi ta không nhớ đến sự khổ cực, thì khổ cực sẽ
biến mất giữa lòng ta” – Hòa thượng triết lý với
tôi như vậy.
Có
được mặt bằng rồi, Hòa thượng Thích Viên Mãn
dựng một ngôi chùa nhỏ, rộng độ 25m2,
làm nơi tu thiền. Tường chùa được xếp bằng những
tảng đá do ông đẽo gọt và cột kèo là 8 chiếc cọc
tre. Mái lợp bằng lá. Trong chùa chỉ có một tấm
hình Phật Tổ được lồng kính trang nghiêm, một lư
hương bằng đất nung, một cây đèn dầu, một cái
chuông, cái mõ và những cuốn kinh.
Nhưng
để biến hòn đảo thành nơi có sự sống, ông tiếp
tục lao động không ngừng. Hàng ngày, ông dậy
sớm, chèo thuyền vào đất liền, đóng đất vào bao,
vác xuống thuyền rồi chèo ra đảo. Hồi đầu, chưa
có kinh nghiệm, ông cứ đổ đất lên các hốc đá.
Nhưng rồi, mùa mưa đến, vài trận mưa rào tầm tã,
xối hết cả đất xuống biển, đảo lại trơ ra toàn
đá. Bao nhiêu mồ hôi đổ hết xuống biển cả.
Không
chịu khuất phục, ông nghĩ ra cách chống lại hiện
tượng xói mòn. Ông dùng nilon bít tất cả những
khe đá lại rồi đổ đất vào. Cứ mỗi lớp đất, lại
xếp lên trên một lớp đá, rồi dùng đá xây kè
thành tường chung quanh với những lỗ nhỏ ngoằn
ngoèo làm dòng nước chảy chậm, đất ít bị cuốn
đi. Tạo được mảnh đất nào, ông lập tức trồng cây
rồi bê đá xếp thành tường cao để chống gió biển.
Ông còn trồng khoai lang, sắn và các loại rau
quả trong các giỏ đất xếp trên mặt các tảng đá
để có thứ ăn.
Quá
trình chăm sóc cây cối vô cùng vất vả. Ông phải
chèo thuyền thúng về đất liền, gánh từng xô nước,
đổ đầy thuyền rồi chở ra đảo để tưới cây. Cứ
tưới được một lúc, nắng nóng và gió biển thổi
mạnh lại khô ro, nứt nẻ, do đó, phải tưới nước
liên tục nhiều lần một ngày. Cây cối mọc lên, rễ
tua tủa, tỏa bóng mát, vừa chống xói mòn đất,
lại cản được gió biển.
Tôi
hỏi: “Tổng cộng có bao nhiêu năm Hòa thượng gánh
đất, gánh nước ra hòn đảo này?”. Ông lẩm nhẩm
tính và bảo rằng, trừ 5 năm phá đá, dựng chùa,
đến nay đã có 40 năm một mình ông liên tục chở
đất từ đất liền ra hòn đảo hoang này.
Ngày
nay, dạo bước trên hòn đảo tiên cảnh này, con
người trần tục chúng ta khó mà tưởng tượng nổi
vì sao một con người nhỏ bé, gầy guộc kia có thể
làm được việc đó.
Nhà
văn Quách Giao, người thân thiết với Hòa thượng
từ ngày mới ra đảo kể: Suốt hơn 40 năm qua, ngày
nào Hòa thượng Thích Viên Mãn cũng chở nước và
đất từ đất liền ra đảo, rồi gánh nước trên vai,
tay chống gậy, tay kia giữ quai thùng, bàn chân
trần dẫm lên phiến đá nóng bỏng chuyển đến nơi
cần thiết. Không ít lần, ông bị trượt chân, ngã
lăn lông lốc xuống vách đá bất tỉnh nhân sự.
Những giọt nước quý hiếm đổ xuống đá chỉ một
loáng đá bốc hơi sạch...
Khổ
nhất là những ngày biển động. Những cơn sóng bạc
đầu lật úp cả thuyền đất, dìm vị hòa thượng gầy
gò xuống biển. Ông còn nhớ chiều ngày 14/10/1972
(âm lịch), khi đang chở nước từ đất liền ra đảo,
một cơn lốc từ đất liền thổi ra, lật úp thuyền.
Hòa thượng chỉ còn biết bấu vào miếng xốp mang
theo (ông dùng miếng xốp khá lớn thay phao cứu
hộ, đề phòng khi thuyền lật). Gió thổi mỗi lúc
một mạnh, miếng xốp kéo ông mỗi lúc thêm xa bờ.
Qua
một đêm vật lộn với sóng biển, sáng ra, không
còn thấy hòn đảo nào cả, bốn bề chỉ là biển xanh
thăm thẳm với sóng lớn dập dềnh. Sau 3 ngày, 3
đêm lênh đênh trên biển, khi chuẩn bị đổ xuống
vì kiệt sức thì gặp tàu viễn dương của Nhật Bản.
Được uống nước, ông dần tỉnh lại. Trên người lúc
đó chỉ còn mỗi chiếc quần đùi. Những thủy thủ
người Nhật này chuyển ông cho tàu đánh cá Việt
Nam và họ chở ông về đảo Hòn Đỏ để ông tiếp tục
con đường đến cõi Phật.
Dạo
bước trên đảo Hòn Đỏ được phủ kín bởi cây xanh
và những vườn hoa rực rỡ sắc màu thật khó có thể
tin rằng, 50 năm trước, nó là một đảo hoang chỉ
có đá là đá. Giờ đây, trên đảo bốn mùa cây trái
đơm hoa. Hòa thượng Thích Viên Mãn còn kỳ công
ra Yên Tử chiết cành đại 700 tuổi về trồng để
mong thấy được bóng Phật.
Kỳ
công nhất là vườn xoài tượng 14 cây ở giữa đảo.
Đây là giống xoài ngày trước dùng để tiến vua,
hiện chỉ còn ở khuôn viên chùa Từ Quang (Phú
Yên). Ông phải gieo hạt vào giỏ đất, rồi khoét
núi đá sâu 1m, đổ đất, trồng cây vào, chúng mới
sống được và cho trái. Trái xoài nhỏ, ăn có vị
ngọt ngọt, chua chua và vị mặn, có lẽ do nước
biển.
Tăng
ni phật tử bốn phương về viếng cảnh chùa, ăn
trái xoài thấy vị mặn mà nghĩ rằng mồ hôi Hòa
thượng Thích Viên Mãn đã đổ xuống gốc xoài để
xoài đơm hoa kết trái.
Giờ
đây, ngôi chùa nhỏ trên đảo này đã có thêm 4 đệ
tử. Hòa thượng Thích Viên Mãn đã giao quyền trụ
trì lại cho đệ tử là Đại đức Thích Chúc Minh.
Tăng chúng đã đóng góp cho nhà chùa để mua chiếc
máy bơm nước, với hệ thống ống dẫn nước kéo từ
đất liền ra để các sư đỡ cực nhọc. Mùa khô, gió
biển vẫn thổi rất khốc liệt, trụi hết lá cây,
nên phải tưới nước liên tục. Mấy đệ tử phải thay
nhau cầm vòi tưới nước suốt ngày đêm.
Theo
thầy Chúc Minh, phải tưới liên tục 3 ngày 4 đêm
mới hết đảo, nhưng tưới đến cuối đảo, thì phía
đầu đã lại khô trắng. Trung bình mỗi tháng, hòn
đảo sử dụng 1.000m3 nước để tưới cây.
Nếu một người làm việc với máy tưới nước cũng
không xuể, vậy mà từ mấy chục năm nay, Hòa
thượng Thích Viên Mãn chỉ với chiếc thuyền, đòn
gánh và hai chiếc thùng cùng mồ hôi và tâm huyết,
đã mang lại sự sống cho hòn đảo này.

những lời dạy của Phật treo kín các gốc
cây |
 |
Rời
đảo Hòn Đỏ với ngôi chùa Từ Tôn giữa cảnh bồng
lai nơi biển cả, Hòa thượng Thích Viên Mãn tiễn
tôi xuống tận bến thuyền. Từng đoàn khách du
lịch thong thả lên đảo thưởng ngoạn thành quả
lao động mấy chục năm của một nhà sư kỳ lạ.
Không hiểu vị Hòa thượng này đã đắc đạo nhờ lao
động thay vì nhập thất tụng kinh hay chưa, nhưng
nhìn vào thành quả mà ông gây dựng, tôi tin rằng
ông đã tìm thấy cõi Niết Bàn Tại Thế cho chính
mình.
Phạm Ngọc Dương
 |