HÀNH HƯƠNG PHẬT
GIÁO
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỊCH
SỬ PHẬT GIÁO
Nhà Nghiên cứu
HUỲNH NGỌC TRẢNG
Hành hương trên đất Phật
Ở Thiên Trúc, được tôn kính nhất
đối với tín đồ Phật giáo là các di vật và các địa điểm trực tiếp gắn với
cuộc đời của đức Phật lịch sử, kết thúc vào khoảng năm 481 TCN. Các di vật
gồm di cốt (xương sọ, răng) và đồ dùng của Phật (y, đồ chải răng, tích
trượng, bình bát, ống nhổ...) và các địa điểm; mỏm đá phơi áo (Udynaga),
tảng đá Linh Thứu, cây ăn cháo, hang (Linh Thứu), dấu móng tay, bóng Phật
trên vách đá, dấu chân Phật và quan trọng hơn các địa điểm kỳ bí đó là các
nơi liên quan đến cuộc đời của Phật như Tứ Động Tâm: nơi đản sinh (Lumbini),
nơi thành đạo, nơi chuyển pháp luân và nơi Phật nhập Niết bàn... Ngoài ra,
tro của nhục thân Phật, sau khi thiêu đã được phân cho 8 vương quốc để lập
tháp thờ, và sau đó theo truyền thuyết, vua A Dục (lên ngôi năm 273 TCN, quy
y năm 261 TCN và mất năm 256 TCN) đã phá 7 trong 8 ngôi tháp trên để lấy tro
phân cho 84000 ngôi tháp mới xây nhằm tưởng niệm những sự kiện liên quan đến
cuộc đời Đức Phật. Đồng thời một số trụ đá nhẵn bóng được dựng lên ở những
địa điểm liên quan đến cuộc đời của Phật đã tạo nên những con đường hành
hương đến những địa điểm thiêng. Điều đáng lưu ý ở đây là bấy giờ đã có các
tháp chứa kinh Phật và vua A Dục đã cho khắc vào đó những bản văn nói về
Phật pháp. Nói cách khác, thời A Dục đã lưu tâm đến yêu cầu hoằng hóa đạo
pháp trong việc xác lập các địa điểm chiêm bái (xem thêm R. Craven.
Indian Art, 1995,p38-40). Đó phải chăng là yêu cầu cơ bản của hành hương
Phật giáo mà những việc làm của các Tăng sĩ hành hương sang Phật quốc đã
minh chứng.
Hành hương sang Phật quốc
Trong lịch sử Phật giáo, ngài
Pháp Hiển, ngài Huyền Trang, ngài Nghĩa Tịnh là những nhà hành hương tiêu
biểu. Ngài Pháp Hiển (đi năm 399 - về năm 414) và Pháp sư Trần Huyền Trang
(đi 629-về 646) đến đất Phật bằng đường bộ cực kỳ gian nan. Còn ngài Nghĩa
Tịnh (635-713) tới Ấn Độ bằng thuyền. Rõ ràng là ra đi từ những thời điểm
khác nhau nhưng các Thiền sư Trung Quốc đều xuất phát từ việc họ không thỏa
mãn với những bản kinh không đầy đủ và khó hiểu hay với tình trạng còn thiếu
nhiều kinh điển để có thể đáp ứng nhu cầu tu học. Mục đích chuyến hành hương
của các ngài không chỉ là chiêm bái các thánh tích, tham dự vào các lễ hội,
mà còn là mưu cầu tri thức ngay chính nơi Phật quốc. Nói cách khác sự phát
tâm cầu đạo đã thôi thúc các ngài lên đường, đã xác lập sự quyết tâm vượt
qua những gian nan nguy hiểm, kể cả lệnh cấm của nhà vua trên từng chặng
đường đến Thiên Trúc. Hơn nữa, chính vì nhu cầu cần được học ở các bậc thầy
giỏi nhất giúp các ngài thu được những tri thức hoàn chỉnh về những bản kinh
của các tông phái Phật giáo khác nhau nên họ đã cố gắng hết sức mình: nhiều
nhà hành hương đã học tiếng Phạn thông thạo đến mức các cao Tăng Ấn Độ hài
lòng, có người tu học tinh tấn khiến vua chúa bản xứ mời họ đến cung vua
thuyết pháp, tranh luận với các ngoại đạo thắng lợi. Đó là những gương sáng
cho các Tăng sinh du học ngày nay noi theo và đối với hàng Phật tử chúng ta,
mục đích hành hương chân chính của các cao Tăng này là những gì chúng ta cần
suy gẫm để hướng đến một hành vi chánh tín.
Tây du của Tăng sĩ Việt Nam
Đứng ở góc độ lịch sử văn hóa,
hành hương là chuyến đi đến xứ xa để tìm kiếm những tri thức mới, nhu cầu
cần thiết và cao cả của con người mọi thời đại, và khi họ trở về với những
tri thức mới sở đắc cùng kinh sách được mang về đã góp phần bổ sung, nâng
cao - thậm chí làm thay đổi những hiểu biết, những nhận thức cũ. Phật giáo
Việt Nam cũng có những Thiền sư Tây du sang Ấn Độ. Một trong số đó, được
sách sử nhắc đến là ngài Sùng Phạm (mất 1087), đệ tử của Ngài Vô Ngại ở chùa
Hương Thành. Sùng Phạm thuộc thế hệ 11 Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ông ở
lại Ấn Độ 9 năm và khi về nước mở trường dạy đạo ở chùa Pháp Vân. Vua Lê Đại
Hành nhiều lần triệu thỉnh vào cung để bàn luận Phật học. Người khác là Từ
Đạo Hạnh: vì muốn trả thù cha, Từ Đạo Hạnh sang Ấn Độ cầu học pháp thuật,
nhưng đi đến xứ Kim Xỉ (Răng vàng, Miến Điện), thấy hiểm trở bèn quay về, ẩn
cư ở núi Phật Tích... (xem Lĩnh Nam chích quái). Đến đầu thế kỷ XX, việc
hành hương sang Ấn Độ để cầu học đạo pháp có “nhà sư ăn rau” Thiện Quảng
(đến Thái Lan, Ngài theo cụ Phan Bội Châu hoạt động) và nhà sư Minh Tịnh
(người Thủ Dầu Một) đã sang Ấn Độ, Tây Tạng và đem Phật giáo Tây Tạng về
truyền bá ở Bình Dương... Nói chung, việc Tây du học đạo của Tăng sĩ Việt
Nam chỉ ở mức độ khiêm tốn về số lượng cũng như chất lượng. Tuy nhiên điều
này cũng chỉ ra rằng việc hành hương sang đất Phật đã được các thế hệ Tăng
sĩ chú ý, và cũng đã trở thành một tập tục ở xứ ta.
Sự hình thành những điểm hành
hương Phật giáo
1. Cứ vào truyện Nhất Dạ Trạch
của Lĩnh Nam chích quái, chúng ta có thể thấy rằng Chữ Đồng Tử (con rễ vua
Hùng) đã theo đường biển đến núi/đảo Quỳnh Viên/Quỳnh Vi để học đạo từ nhà
sư Phật Quang/Ngưỡng Quang. Lê Mạnh Thát trong Lịch sử Việt Nam từ khởi
nguyên đến Lý Nam Đế, 1999 đã dựa trên những sử liệu chứng minh rất thuyết
phục rằng Quỳnh Viên ở cửa Sót, thuộc biên giới phía Nam của nước ta và
Chiêm Thành. Dẫn lại điều này, chúng tôi muốn lưu ý rằng Chữ Đồng Tử có thể
coi là nhà hành hương đến xứ xa để tìm học đạo pháp sớm của PG Việt Nam. Đạo
Phật mà Chữ Đồng Tử đã tiếp thu là thứ Phật giáo quyền năng, đậm tính chất
phù chú. Chính vì vậy mà sau này nó dễ dàng đồng nhất với Đạo giáo, và do
đó, vị Phật tử Việt Nam đầu tiên (gọi theo Lê Mạnh Thát, sđd) được thế nhân
tôn là “Chữ Đạo tổ”. Và điều liên quan đến đề tài của bài này là một loạt
các địa điểm liên quan đến hành trạng của Chữ Đồng Tử, đã trở thành địa điểm
thiêng, mà trung tâm là “Dạ Trạch hóa từ” (thôn Yên Vĩnh, Dạ Trạch, Châu
Giang, Hải Dương) và kế đó là các địa điểm từ Chữ Xá (Gia Lâm, Hà Nội) đến
Hà Tây, Vĩnh Phú.... Phải chăng đấy là những địa điểm hành hương Phật giáo
sớm nhất ở xứ ta ?
2.Tính chất đa tín ngưỡng của
các địa điểm hành hương là một đặc điểm khá phổ biến ở xứ ta. Tất nhiên,
cũng có trường hợp là đơn nhất. Sách Giao Châu ký có ghi : “Thành Nê Lê ở
phía Đông Nam huyện Định An, cách sông 7 dặm, tháp và giảng đường do vua A
Dục lập vẫn còn. Những người đốn củi gọi là kim tượng”.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê
Mạnh Thát (sđd, tr.30-35) thì tên gọi thành Nê Lê có thể là âm của Nakara
(địa ngục) và ông đoán định đó phải chăng là chùa Tây Thiên (tục danh là
"chùa Địa Ngục" ở vùng Tam Đảo. Vấn đề đáng lưu ý ở đây là phải chăng “tháp
và giảng đường” ở thành Nê Lê này là do phái đoàn Tăng lữ mà A Dục phái đi
truyền đạo ở Đông Nam Á, tức vùng Kim Địa (Suvanabuhmi) vào những năm
247-232 TCN) tạo dựng? Đây là vấn đề còn đòi hỏi nhiều nỗ lực nghiên cứu,
song kết quả khảo cổ học về Óc Eo (Phù Nam) đã đưa ra những dữ kiện đáng tin
cậy về con đường truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ sang Phù Nam, Chiêm Thành,
Giao Châu. Cũng theo điều này, việc lập tháp thờ tro (một trong 84.000 ngôi
tháp của vua A Dục nói trên) đã xuất hiện ở vùng Tam Đảo và như vậy, việc
hành hương lễ bái tháp chứa tro/cốt cũng đã du nhập vào xứ ta từ thế kỷ thứ
III tr. Tây lịch.
3.Sự kiện này có thêm một dữ
liệu khẳng định hơn. Đó là việc nhà sư Giao Chỉ (cho là người Khương
Cư/Sogdiane, thuộc Bắc Ấn) là Khương Tăng Hội - được coi là Sơ tổ Thiền tông
Việt Nam - đã có công trong việc cầu xin sự hiển hiện của xá lợi ở Kiến
Nghiệp vào năm 240, khiến vua quan họ Ngô hết sức thán phục, nhân đó cho
dựng tháp; và nhờ đó, đạo Phật được đứng chân ở đây, đạo pháp Giang Tả mới
thịnh (Cao Tăng truyện)
Đằng sau sự kiện này, cho thấy
trong Tăng lữ và dân chúng Giao Chỉ - quê hương của Hội, việc sùng bái tháp
thờ xá lợi đã trở nên phổ cập. Có lẽ cũng do vậy nên năm 455 lại có việc xây
tháp đựng tro cốt của nhà sư Đàm Hoằng ở núi Tiên Sơn để thờ.
Đàm Hoằng người Hà Bắc (gần Bắc
Kinh) xuất gia từ nhỏ, sau Nam du đến Phiên Ngung, dừng ở chùa Đài rồi đến ở
chùa Tiên Sơn xứ Giao Chỉ. Ngày ngày, Hoằng tụng Vô Lượng Thọ và Quán kinh
nguyện thề về an dưỡng. Vào năm 455, Hoằng lén nhóm lửa trong núi tự thiêu,
đệ tử cứu kịp thì nửa mình đã cháy, sau đó, nhân gần ở nơi xóm có mở hội, cả
chùa đều đi dự lễ, Hoằng vào núi tự thiêu. Khi dân xóm hay chuyện, đến nơi
thì mạng Hoằng đã dứt, chất thêm củi, đốt lửa đến ngày mai mới tắt. Ngày hôm
đó, dân xóm đều thấy Hoằng toàn thân sắc vàng, cỡi một con nai vàng đi về
Tây rất nhanh. Ai hỏi đều không đáp, chỉ tay về phía trước. Tăng, tục hiểu
ra sự thần dị, cùng nhau gom tro xương, dựng tháp để thờ (lược kể theo Vãng
sanh Tịnh Độ truyện/bản dịch của Lê Mạnh Thát, sđd)
Câu truyện trên đã chỉ ra việc
lập tháp đựng tro cốt các Tăng sĩ đã tịch ở chùa... đã trở nên một tập tục,
và như vậy, Tiên Sơn - một trung tâm PG cổ xưa, đã có thể trở thành một địa
điểm chiêm bái thu hút đông đảo người hành hương vì sự kiện thần dị của Đàm
Hoằng. Một trong những giả thiết có sơ sở thì Tiên Sơn thuộc khu vực Hương
Tích và như vậy chùa Hương (Hà Tây) - một lễ hội có thời gian dài nhất so
với toàn bộ lễ hội cả nước, kéo dài từ 6.1 đến 15.3 Âl. Phải chăng đã bắt
đầu từ thế kỷ V này?
Hành hương và hội chùa
Phật giáo chưa hẳn là tôn giáo
xướng xuất nên hoạt động hành hương - lễ hội ở xứ ta nếu so với các lễ hội
dân gian lễ bái các thần thánh hay thậm chí so với lễ hội tôn vinh các anh
hùng lịch sử như lễ hội Đền Hùng chẳng hạn. Nói cách khác, hành hương lễ hội
Phật giáo, cũng như bản thân tôn giáo này hội nhập vào văn hóa Việt thường
bằng con đường khế cơ, do vậy hành hương, lễ hội Phật giáo có nội dung đối
tượng sùng tín đa phần là một tổng hợp thể, gồm chư Phật, Bồ tát, Thánh
tăng...phối hợp với thần, thánh và danh nhân, anh hùng lịch sử...Do vậy, một
cách tổng quát có thể thấy một sự phân nhóm mà tiêu chí khu biệt có phần co
giãn.
Nổi bật là các địa điểm hành
hương là: lễ hội gắn với tục thờ Man Nương - Tứ Pháp: hội chùa Dâu (Hà Bắc,
8.4), hội chùa Đậu (Hà Tây, 26,27.12); hội chùa Tứ Pháp (Văn Lân,Hải Hưng -
17.1) hội chùa Tứ Pháp (Di Sử, Hải Hưng, 8.4) hội Đại, chùa Nành (Hà Nội,
4-6.2)
Nhóm các địa điểm hành hương,
chủ yếu là một ngày thiêng liêng và ít nhiều đượm tính chất nhàn tản có thể
kể: hội chùa Hương (Hà Tây), hội chùa Phật Tích (Hà Bắc 4-1 Âl), hội chùa
Hương Tích (Nghệ Tĩnh), hội chùa Tây Phương (Hà Tây 6-10.3 Âl)...và kể thêm
một số các chùa núi ở Nam Trung bộ, Nam bộ cũng có phần nào tương tự.
Nhóm địa điểm hành hương có tính
chất lễ hội tổng hợp lễ Phật và lễ hội dân gian; ở đó ngoài nghi lễ cúng tế,
còn các đám rước, trò chơi thế tục, các cuộc thi tài và biễu diễn nghệ thuật
dân gian : Hội Láng (Thái Bình, 6-12.1ÂL), hội chùa Tam Sơn (Hà Bắc 8-12.1),
hội chùa Lương (Nam Hà, 13 - 16.3), hội chùa Đọi (Nam Hà, 19.3), chùa Thắm
(Vĩnh Phú 5.5).v.v...ở đây cũng kể thêm sự tích hợp lễ hội các danh nhân,
anh hùng lịch sử và lễ Phật: Hội chùa Bồ (Thái Bình, 7-15Âl) là lễ hội Hai
vua bà, Công chúa Bát Nàn và lễ chư Phật; hội chùa Vẽ (Hải Phòng, 10-20.6)
là lễ cầu kinh và dâng hương kỷ niệm nơi Trần Hưng Đạo đã từng đóng quân để
nghiên cứu chiến trường sông Bạch Đằng.
Nhóm hành hương lễ hội giổ Tổ
của chùa: Hội chùa Đại Bi (Hà Bắc, 18-23.1): Thiền sư Huyền Quang (một trong
3 Tổ Trúc Lâm); hội chùa Thanh Mai (Hải Hưng, 1-3.2) : Tổ Pháp Loa; hội chùa
Thầy (Hà Tây, 5-7.3): Từ Đạo Hạnh; hội chùa Láng (Hà Nội, 5-7.3): Từ Đạo
Hạnh; hội chùa Keo (Thái Bình, 13-15.9): Dương Không Lộ; hội chùa Cổ Lễ (Nam
Hà, 15-20.9): Nguyễn Minh Không...Điều lưu ý là tuy gọi giỗ Tổ, các danh
nhân, nhưng phần hội lớn hơn khoa nghi nhà Phật, gồm các trò chơi thế tục,
diễn tích xưa, hát chèo, rối nước...Chính vì các thành tố này nên chúng được
gọi là hội.
Hành hương xưa và nay
Thoạt tiên, hành hương là từ chỉ
thủ tục hành lễ: tay cầm nén nhang đi nhiễu quanh đối tượng tôn kính 3 vòng
theo chiều kim đồng hồ. Điều này đã chỉ ra rằng hành hương vốn gắn với mục
đích tôn giáo, tín ngưỡng, nghiêm túc. Nói rộng hơn, hành hương luôn tạo ra
một mối liên hệ giữa phàm tục với thiêng liêng, giữa cá nhân người hành
hương với cả một cộng đồng cùng đi và đặc biệt là mối liên hệ giữa con người
“tứ đại giả hợp” của mình với con người thứ hai của mình - con người đã được
nhận thức lại qua chuyến đi này. Phật giáo, qua lịch sử có nhiều tông phái.
Do đó cả chùa Tổ đình nhờ thành tố lịch sử này (và có thể được tích hợp
những thành tố linh ứng), đã trở thành những địa điểm tự nhiên của hành
hương, chiêm bái và thường là ở nơi xa xôi khó tới nào đó. Rồi sau đó, các
tông phái đều có các trung tâm ở đô thị. Đó là địa điểm hành hương đông đúc.
Đến chùa lễ Phật được coi là hành vi mộ đạo và sự tri ân; trong chừng mực
nào đó là tin vào sự cứu độ của chư Phật, Bồ tát hơn là vào bất cứ công lao
tu tập của chính bản thân mình. Tuy nhiên, một chuyến hành hương đến một địa
điểm thiêng liêng nào đó thì chính việc leo núi băng rừng càng vất vả chừng
nào là có ý nghĩa bày tỏ /thể hiện lòng thành chừng đó và như vậy, tạo được
công đức.
Rồi khi phương tiện di chuyển
thuận lợi hơn, đường xá giao thông phát triển tốt hơn thì để gia tăng lần
lượng cho chuyến đi, cách “hành hương thập tự” (10 chùa) được nhiều Phật tử
hưởng ứng và xu hướng càng lúc sẽ càng gia tăng về số lượng địa điểm. Cuộc
hành hương chỉ hoàn thành khi người hành hương đã đi đủ số lượng nơi hành
hương mà mình đã nguyện. Ở từng địa điểm ngoài việc lễ bái thì việc cúng
dường, đóng góp cho nhà chùa để mong đổi lấy sự ước mong phước lạc, công đức
cho bản thân và gia đình trong đời này (hay hồi hướng công đức cho vong linh
tổ tiên được nhờ đó mà siêu thoát). Mặt khác, cũng có một số người, cuộc
hành hương được coi như một chuyến đi nhàn tản để có sự thư thái tâm hồn với
mục đích tham gia vào một số hình thức tôn giáo chung như một nếp sinh hoạt
văn hóa và cũng không phải là không có người nhằm vào mục đích du lịch văn
hóa truyền thống qua sự hội nhập vào đó để chiêm nghiệm cái hồn của lễ hội,
ý nghĩa đích thực của hành hương vì lẽ hành hương mà không có cái tâm thì
chỉ là khán giả đứng bên ngoài để nhìn một vở diễn thuần túy, một sự phóng
túng mang tính sân khấu. Lý do tồn tại của hành hương không phải là nhìn mà
là nhập cuộc vào một nơi đặc biệt, ở một khoảnh khắc đặc biệt.
Nói chung, dù có những khác biệt
giữa từng người, nhưng hành hương đích thực là một chuyến đi trong không
gian, trong thời gian và trong bản thân mình là sự hóa thân của cuộc sống
trần tục, đưa lại ý nghĩa cho cuộc đời mình. Cụ thể hơn, chuyến đi trong
không gian là chuyến đi do chính mình thực hiện, tức đó là một cuộc đi bộ vì
không có sự sùng tín thực sự nào phát sinh khi mọi việc quá dễ dàng, thuận
lợi. Hành hương mà thể xác có nhọc nhằn thì linh hồn mới bay bổng lên cao,
đôi chân bước đi có thật sự mỏi nhừ thì chính ta mới đến chốn tâm linh xui
khiến.
Đi trong thời gian là sự hồi cố
về quá khứ do sự va đập của trực giác với các di vật di tích cổ xưa. Ký ức
là nhân tính của mỗi người, cũng như truyền thống là nhân tính của cộng đồng,
của dân tộc. Do vậy, sự nối kết quá khứ với hiện tại tự nó là thuộc tính bản
thể người.Cái cảm nhận "dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lầu đài bóng
tịch dương” mà bà Huyện Thanh Quan đã sở đắc là nhịp đập hiện tại trực
quan vào ký ức đã xa như của những tiền kiếp sống dậy. Và cái quan trọng hơn
thảy đã nảy sinh ra từ sự “quán tưởng” đó: cuộc đi trong chính bản thân ta.
|