Nguyên Tử và Vô Ngã
Nguyên tác
Wu Shu
Việt dịch
Đồng Thành

Mọi
người đều đồng ý rằng khoa học là yếu tố tiên
phong để tạo nên nền văn minh hiện đại. Những
khám phá gần đây về sự giải phóng năng lượng hạt
nhân đã đưa nhân loại đến một thời đại mới: Thời
Đại Nguyên Tử. Song, bất hạnh thay, dấu hiệu đầu
tiên của sự khai sinh thời đại mới này là việc
gia tăng một loại vũ khí giết người mới, đó là
bom nguyên tử.
Nhân
loại cảm thấy lo âu khi sống trong thời đại
nguyên tử, một thời đại mà sự hủy diệt toàn bộ
các nền văn minh trên thế giới này là điều có
thể xảy ra. Khi biết mình đang sa vào vết lầy
của thời đại, con người bèn nghĩ đến việc nên
loại bỏ thứ năng lượng giết người đó để tận
hưởng một cuộc sống thanh bình, giản dị như tổ
tiên đời trước. Tuy nhiên, lịch sử không để cho
các sự kiện trôi ngược về quá khứ. H. Compton -
một khoa học gia có thẩm quyền ở Mỹ, đã từng
tuyên bố trong cuốn Một thế giới hay là không,
rằng: "Không một ai có đủ sức để ngăn chặn sự
hình thành của thời đại nguyên tử".
Do
vậy, điều đúng đắn duy nhất mà con người cần làm
là phải ý thức được rằng vị thế của mình đang
đứng là nghiêm trọng và cần phải thích ứng tư
duy cùng lối sống của mình bằng một cách nào đó
để sử dụng hiệu quả nhất nguồn lực mới đang
trong tầm tay của mình. Rõ ràng bản thân bom đạn
không có gì sai lầm mà sai lầm phát sinh từ
chính con người. Hơn nữa sự thật là bản chất nội
tại của nguyên tử không có ảnh hưởng mấy đối với
khoa học hay các lĩnh vực khác như tri thức, tâm
lý, triết học và ngay cả thần học. Mục đích của
chúng tôi là giới thiệu những sự kiện quan trọng
cùng những quan niệm mới mà các nhà khoa học
hiện nay đã khám phá để so sánh sự giống nhau
giữa những khám phá đó với các nguyên lý căn bản
về thực tại mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giác
ngộ và thuyết giảng cách đây hơn 2500 năm.
Năm
1808, John Dalton đề xuất lý thuyết nguyên tử.
Ông tin rằng một nguyên tố bao gồm nhiều nguyên
tử không thể thấy và không thể chia chẻ được.
Ông cho rằng các nguyên tử có đặc tính cô kết
như những viên bi-da. Cuối thế kỷ ấy, các nhà
khoa học vĩ đại như Michael Faraday, James
Maxwell và Lord Kelvin bắt đầu sự nghiệp phát
triển nền khoa học điện tử. Bản chất điện tử của
một nguyên tử phần nào được khám phá. Năm 1913,
Niel Bohs đề xuất một lý thuyết mới, theo đó
nguyên tử gồm hai phần: một hạt nhân nhỏ và nặng
được bao quanh bởi một khoảng không lớn hơn và ở
đó các electron luôn di chuyển cũng giống như
các hành tinh xoay quanh mặt trời, bao quanh các
electron là những dòng từ trường lạ.
Về lý
thuyết, ảnh hưởng của các dòng từ trường này
luôn mang tính phổ quát. Faraday minh họa một
nguyên tử cũng giống như con sao biển với thân
nhỏ và các chi tương đối dài. Sao biển sẽ bị
vướng vào một vật khi các chi của nó tiếp xúc
với vật đó. Hình ảnh minh họa này có nghĩa là:
sự cấu thành của vũ trụ vật chất có tương hệ đến
các vũ trụ khác và chúng không thể tách rời
được. Quan niệm về nguyên tử như thế có một ý
nghĩa triết học vô cùng quan trọng: các sự vật
không thể tồn tại riêng lẻ, tách biệt nhau, do
đó ý niệm về sự tồn tại của một vật thể cá biệt
thực ra chỉ là một ảo tưởng trong tâm mà thôi.
Vũ trụ chẳng qua là một quá trình, một hệ thống
vận hành có sự tương tác lẫn nhau và ở đó không
một sự vật nào vận hành độc lập với các sự vật
còn lại, và cũng ở đó tất cả đều vận động không
ngừng. Quá trình này, tuy cách diễn dịch có vẻ
khác lạ, nhưng rất khế hợp với giáo lý vô thường
của đạo Phật, một giáo lý nói về bản chất biến
dịch và vô thường của các pháp.
Khi
đã giải phóng được năng lượng hạt nhân, con
người vẫn còn mang một niềm tin mù mờ về sự tồn
tại của chín mươi bốn nguyên tố mà nguyên tử của
chúng được xem là không thể hủy hoại được. Tuy
nhiên, vào đầu năm 1905, nhà bác học Albert
Einstein đã khám phá một sự thật là khối lượng
và năng lượng có thể hoán đổi nhau được, và ông
đưa ra một phương trình hoàn hảo : E = MC2,
trong đó E là năng lượng, C là vận tốc ánh sáng
và M là khối lượng. Theo phương trình này, một
vật thể nhỏ nếu chuyển qua dạng năng lượng thì
sẽ tạo ra một nguồn năng lượng rất lớn. Phương
trình này đã được kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng
qua sức tàn phá của những quả bom nguyên tử tại
New Mexico, Hiroshima, Nagasaki và vùng phụ cận
Bikini Atoll ở Thái Bình Dương. Như vậy vật thể
hay nguyên tử có thể được mô tả như những hình
thái hợp nhất kiên cố của năng lượng. Phản ứng
xảy ra trong một quả bom nguyên tử với sức bộc
phá lớn có thể được thể hiện qua công thức sau:
U - 235 + Neutron = I = Y = N neutron. ( U:
Urani, I: iốt, Y: Yttriuna, N một con số nào
đó). Như thế, một nguyên tử Urani vỡ ra và
chuyển thành những nguyên tử iốt và và Yttrium.
Nguyên tử, nghĩa gốc của nó là "không thể chia
chẻ được", cuối cùng đã được chứng minh rằng có
thể bị chia chẻ. Nhưng trong lĩnh vực hóa học
ngày nay, lý thuyết quy ước về nguyên tử vẫn cần
thiết cho các mục đích thực tế nhất. Điều nghịch
lý là lý thuyết đó có thể được hiểu một cách
triết lý rằng: một nguyên tử thực ra không phải
là một nguyên tử; nó được đặt tên như thế vì để
cho mọi người dễ gọi mà thôi. Người ta sẽ cảm
thấy ngạc nhiên khi nhận ra sự tương đồng giữa
khoa học và Phật giáo qua lời tuyên bố sau trong
kinh Kim Cang: "Khi Như Lai nói về thế giới,
Ngài không cho rằng thế giới ấy là thực, Ngài
chỉ gọi thế giới trên danh nghĩa mà thôi".
Chúng
ta cùng chuyển sang một lĩnh vực khác mà các nhà
khoa học ít quan tâm, đó là chức năng lý trí của
con người. Dù các chức năng tâm lý phức tạp và
vi tế hơn các hiện tượng vật lý, nhưng mỗi chúng
sanh đều có đủ khả năng thấu hiểu chính mình nếu
họ biết tự mình quán chiếu và thực nghiệm tu
trì. Các chức năng lý trí và tâm lý của chúng ta
có thể được chia làm hai loại: những chức năng
hoạt động trong lĩnh vực của ý thức và những khả
năng siêu thức. Nhiều chuyên gia tâm lý đã đưa
ra nhiều thuật ngữ và định nghĩa khác nhau về
những khả năng siêu thức, một số gọi đó là tiềm
thức và những người khác gọi là vô thức.
Song
nói chung họ đều đồng ý rằng hoạt động tâm lý
của các chức năng đó vượt khỏi sự nhận biết và
điều khiển của tâm mình. Về bản chất của lĩnh
vực tiềm thức này, các nhà tâm lý đưa ra nhiều
tên gọi khác nhau như: sự ham muốn và khao khát
ban sơ, bản chất nguyên ủy, sự nỗ lực, thôi
thúc, giục giã, bản năng... Thực ra, khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực đặc thù này vẫn còn non
trẻ.
Có
một điều lạ là lĩnh vực tiềm thức, một lĩnh vực
khá mơ hồ đối với con người trong thời đại
nguyên tử lại được đề cập nhiều lần và trình bày
rất cụ thể trong kinh văn Phật giáo. Những tác
phẩm này không những bàn luận về tâm thức mà còn
đề cập đến các phương pháp hành trì vật lý và
tâm linh để chế ngự các ham muốn và khao khát,
để đoạn trừ chúng một cách hoàn toàn, và để đạt
được trạng thái gọi là giác ngộ, nơi mà hành giả
thể nghiệm được các pháp như thật, và cuối cùng
thể hội giáo lý vô ngã, nghĩa là không có cái gì
để gọi là bản ngã cá nhân cả. Thực không thể đề
cập ở đây một cách chi tiết về triết lý và
phương pháp tu tập tâm trong đạo Phật, nhưng có
lẽ sẽ thú vị hơn nếu tôi trình bày khái quát
triết lý của Pháp Tướng Tông hay Duy Thức Tông.
Theo
triết lý của trường phái này, vũ trụ được hình
thành trên nền tảng của tám thức. Năm thức đầu
gắn liền với năm căn, tức là khả năng thấy,
nghe, ngửi, nếm và cảm thọ. Thức thứ sáu là thức
năng động nhất. Thức này bao gồm tất cả các chức
năng tinh thần trong phạm trù nhận thức. Thức
thứ bảy có công năng chấp thủ bản ngã, và thức
thứ tám là thức quan trọng nhất. Thức này cũng
được gọi là Tàng thức, nơi dung chứa các chủng
tử, năng lượng của tất cả các hành vi và ý niệm.
Thức thứ bảy và tám có công năng như những trung
tâm tâm lý. Dù một người đang tỉnh táo hay ngủ
say và ngay cả khi đang ở trong trạng thái thông
thường mà người ta gọi là chết, hai thức này vẫn
tồn tại.
Thậm
chí khi sáu thức trên không còn hoạt động được
nữa, năng lực của thức thứ bảy hay khả năng chấp
ngã vẫn mạnh mẽ, nó giống như hạt nhân gắn liền
với nguyên tử. Nó tạo ra một lớp vỏ bên ngoài
với nhiều hình thức khác nhau, nhưng bên trong
nó là bản năng tham ái để sống, để lớn mạnh, để
sở hữu... thậm chí nó còn ảnh hưởng đến hệ thống
lý trí của chúng ta. Nó khuấy động tâm thức
chúng ta và tạo nên những ảo ảnh về sự tồn tại
cá nhân "cái tôi", "chúng sinh", "sự vật"... và
che phủ đi bản chất thực sự của những nguyên lý
vô thường và vô ngã.
Vì
tất cả các khả năng của tâm thức đều ít nhiều bị
ảnh hưởng bởi sự chấp thủ mù quáng của bản ngã
nên có thể nói một cách hình tượng rằng tiềm
thức là hạt nhân trong đó chấp ngã là động lực
trói buộc. Các thức khác di chuyển xung quanh nó
như các electron đang vận hành xung quanh hạt
nhân của nguyên tử. Sự phân bố của các electron
trong quỹ đạo của một nguyên tử quyết định đặc
tính hoá học của nó. Cũng thế, các yếu tố như ý
thức, cảm thọ, lý trí...của mỗi cá nhân quyết
định nhân cách hay tính cách của người đó.
Một
khía cạnh khác đáng được đề cập là sức mạnh lý
trí của con người. Lý trí có khả năng suy luận,
hiểu biết và tổng hợp tất cả những sự kiện xảy
ra trong kinh nghiệm. Như thế, qua khả năng này,
con người có thể chuyển hóa cũng như trao đổi
những tư tưởng và suy tư của mình giống như các
electron ở quỹ đạo ngoài cùng có khả năng tạo ra
dòng điện. Một điểm đặc biệt khác của lý trí là
nó ít bị bản ngã chi phối nhất. Ngược lại, thông
qua lý trí và quá trình quán chiếu, hành giả có
được khả năng tự phản tỉnh về sự thật vô ngã.
Chính phương tiện trí tuệ thâm diệu này đã dẫn
đến sự xả ly mọi chấp thủ về bản ngã, hay nói
một cách hình tượng hơn, nhờ vào đó, sự tan vỡ
của một nguyên tử vật chất mới có thể xảy ra.
Có lẽ
dưới tác động của những ý tưởng và lý thuyết
khoa học mới được khám phá, William James, một
nhà khoa học đồng thời là một triết gia, đã
tuyên bố rằng thức chỉ là một loại chức năng và
Bertrand Russell cho rằng thuật ngữ "tâm thần"
không thuộc về một thực thể đơn lẻ trong thẩm
quyền của nó mà chính là một hệ thống bao gồm
các thực thể khác nhau. Sự xuất hiện của những
lời tiên đoán về vô ngã có thể phục hồi niềm tin
loài người về bản chất của thực tại, một niềm
tin được hình thành trên nền tảng của triết lý
sáng suốt có liên hệ mật thiết với nền khoa học
hiện đại.
Nhưng
hiểu được Tánh Không của bản ngã là một chuyện,
trực nhận và hành trì một cuộc sống vô ngã lại
là chuyện khác. Einstein đã từng hình dung về
khả năng giải phóng năng lượng hạt nhân nhưng
mãi đến khoảng bốn mươi năm sau, bom mới được
chế tạo. Có những bậc như Đức Thích Ca Mâu Ni và
các đệ tử A La Hán của Ngài, dù với mục đích
hoàn toàn khác với các nhà khoa học, đã tuyên bố
đạt được trạng thái giác ngộ viên mãn và hoàn
toàn nhiếp phục được bản ngã, nhưng so với hàng
tỷ chúng sinh khác thì họ cũng hiếm như các
nguyên tố tự phóng xạ, Urani, radi, actinium và
thorium trên trái đất này. Có một điều thú vị là
trong giáo lý Phật giáo, nguyên lý Trung Đạo
được nhắc đến nhiều lần.
Nguyên lý này chủ yếu dạy con người chế ngự để
không rơi vào những cực đoan trong bất cứ hành
vi nào trên phương diện thể xác lẫn tinh thần.
Chính nguyên lý này đưa hành giả đến sự thể nhập
và giác ngộ. Trong tiến trình thâm nhập vào bản
chất của nguyên tử, các nhà khoa học phát hiện
ra rằng một nguyên tử bao gồm một hệ thống các
electron âm tính bao quanh hạt nhân dương tính.
Các phần tử nhỏ như proton, electron hay các hạt
alpha và các tia điện từ (như các tia gama) mất
đi năng lượng và yếu dần khi đi qua nhưng vùng
từ trường của nguyên tử đó.
Cuối
cùng, họ khám phá một loại hạt mới gọi là nơtron
(neutron) không mang điện tích có thể tự do vượt
qua quỹ đạo và xuyên vào hạt nhân. Dầu khoa học
nguyên tử và Phật giáo có vẻ hoàn toàn khác nhau,
nhưng hai hệ thống này cùng giải quyết vấn đề
năng lượng và giải phóng năng lượng bằng cách
phá vỡ một hình thái hợp nhất kiên cố của năng
lượng, mà một bên gọi là nguyên tử, bên kia gọi
là bản ngã. Hướng thực hiện của hai lĩnh vực này
cũng là "hướng nội". Do đó chúng ta không nên
ngạc nhiên về sự tương đồng giữa hai lĩnh vực
này. Năng lượng được giải phóng qua việc từ bỏ
bản ngã tuy không cụ thể như trường hợp bom
nguyên tử, nhưng trí tuệ tối thượng và lòng từ
bi vô biên của Đức Phật rất giống với ánh sáng
và hơi ấm tỏa ra từ một nguồn năng lượng nguyên
tử tự nhiên, đó là mặt trời.
Trên
đây người viết đã đề cập ngắn gọn đến hai trong
số ba nguyên lý căn bản của Phật giáo là Vô
Thường và Vô Ngã. Nguyên lý còn lại là khổ: kết
quả của một cuộc sống đầy ngã tính. Ba nguyên lý
này quan trọng đến nỗi chúng được xem là những
yếu tố để kiểm chứng của Phật giáo. Bất cứ lý
thuyết hay triết lý nào tương hợp hoàn toàn với
ba nguyên lý này thì được xem là thuộc về Phật
giáo, và bất cứ giáo lý nào không tương hợp với
chúng thì đó không phải là giáo lý đạo Phật. Từ
sự thật này, chúng ta có thể nhận ra tầm quan
trọng của lý trí trong đạo Phật.
Đồng Thành
dịch
(theo
www.phoquang.org)

|