PHẬT GIÁO TÂY PHƯƠNG
Nguyên tác: Đại Đức NYANASATTA
Chuyển ngữ:
Hoà Thượng THÍCH TRÍ CHƠN
Phật giáo du nhập đến các nước
Tây Phương bằng cách nào? Trong thời gian Phật còn tại thế, Phật Giáo mới
chỉ phát triển đến miền Tây Bắc Ấn Ðộ. Hai thế kỷ sau, đạo Phật lan rộng đến
những vùng phía bắc sông Indus ở Punjab và xứ Afghanistan (A Phú Hản). Chẳng
bao lâu, Phật Giáo du nhập các nuớc Ba Tư (Persia), Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan)
và miền bắc xứ Aryan thuộc Trung Á. Ðến thời vua A Dục, Phật Giáo đã được
phát triển xa rộng, bằng chứng là trên những trụ đá của Ngài dựng nên thời
đó có ghi chép về việc nhà vua đã từng phái nhiều đoàn truyền giáo đến
thuyết pháp ở các miền xa như Ba Tư, Syria, Ai Cập, Hy Lạp.
Thú thật rằng tôi chưa hề được
đọc tài liệu xác đáng nào nói về kết quả của đoàn truyền giáo trên tại Hy
Lạp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Nhưng vài tháng trước đây,
nhân dịp trên đường về sau chuyến hành hương thăm Nepal và Bắc Ấn Ðộ, tôi
đem vấn đề trên thảo luận với một học giả ở Madras thì giáo sư này quyết
chắc với tôi trong một cuốn sách viết bằng Anh ngữ vừa mới xuất bản nhan đề
“Khảo Cổ Về Các Tôn Giáo” (The Archaeology of Religions) ông
đã được thấy có nhiều hình ảnh trình bày về nền văn minh và văn hóa cổ của
Phật Giáo ở Macedonia (Hy Lạp) và Thracia. Có thể rằng một ngày gần đây,
người ta sẽ tìm ra được nhiều bằng chứng hơn để làm sáng tỏ vấn đề đó.
Trong địa hạt thương mại, xưa kia
đã có nhiều đường bộ từ Ấn Ðộ qua Ba Tư, Caucasia đến Armenia cùng những xứ
gần Hắc Hải (Black Sea) và Ðịa Trung Hải cũng như các đường thủy từ Ấn Ðộ
qua Ai Cập và La Mã. Như vậy, trước niên kỷ Thiên Chúa, Phật Giáo có thể đã
được truyền vào Âu Châu do những đoàn người đi buôn qua lại giữa Ấn Ðộ với
Hy Lạp và Ý Ðại Lợi. Vào khoảng tám thế kỷ đầu Phật lịch, các thương gia Ả
Rập sau khi đến các xứ Phật Giáo Á Châu về, có thể họ đem những câu chuyện
đời sống đức Phật và giáo lý của Ngài mà họ đã được nghe những Phật tử miền
Trung Á (Central Asia) tường thuật để kể lại với dân chúng bấy giờ. Nhiều
bài thơ ngụ ngôn do Aesop, thi gia Hy Lạp hoặc La Fontaine (Pháp) sáng tác
đều bắt nguồn ở bộ truyện tiền thân đức Phật (Jatakas).
Nhiều nhà hàng hải như Marco Polo
và các vị truyền giáo Cơ đốc đầu tiên đến vùng Viễn đông trở về, họ cũng
mang theo nhiều tài liệu, tin tức của những vùng theo Phật Giáo. Về sau, có
một vài nhà truyền giáo đã học tiếng Phạn (Sanskrit) để mong dễ thành tựu
trong việc phát triển đạo của họ. Những cuốn văn phạm và các bản dịch Phạn
ngữ đầu tiên đều do mấy nhà truyền giáo này biên soạn. Khoảng đầu thế kỷ thứ
17, phạm vi kiến thức của những học giả Tây Phương đã bắt đầu mở rộng: Sau
khi đồng hóa với nền văn chương, nghệ thuật và triết học mới tìm gặp ở Hy
Lạp, họ liền nghĩ đến những vùng đất xa hơn, đó là xứ Ba Tư nằm trên đường
đi Ấn Độ. Năm 1610, người ta dịch truyện Gulistan của Ba Tư.
Năm 1800, Anquetil du Perron ấn
hành cuốn thánh truyện Avesta cũng của dân tộc Ba Tư. Năm 1802-1803,
Anquetil du Perron dịch bộ triết học Áo Nghĩa Thư (Upanishads) viết bằng
Phạn ngữ ra tiếng Ba Tư với nhan đề là Onpnek’hat. Sau này bộ Onpnek’hat
được dịch ra tiếng Latin mới thật công phu và hữu ích, bởi nó đã giúp cho
nhiều triết gia Ðức, nhất là Schelling và Schopenhauer hiểu rõ được nguồn
gốc khởi thủy của triết học Ấn Ðộ.
Tuy nhiên sự chú trọng nghiên cứu
Phạn ngữ- chính trong lúc học hỏi văn chương và tiếng Phạn, Tây Phương đã
biết Phật Giáo- bắt đầu do những học giả Anh quốc. Ông Warren Hastings
(1732-1818), vị toàn quyền đầu tiên của Ấn Ðộ đã ủy thác cho 11 vị học giả
theo đạo Bà La Môn dịch ra tiếng Anh bộ luật Ấn Ðộ (A Code of Gentoo Laws)
và năm 1775, bản dịch đó đã được gởi qua Luân Ðôn. Nhờ sự khích lệ của
Warren Hastings, một học giả khác, ông Charles Wilkins đã dịch bộ
Bhagavadgita năm 1785 và bộ Hitopadesa năm 1787. Và cuốn văn phạm Phạn văn
đầu tiên cũng do ông này soạn. Vào năm 1786 có một học giả người Hy Lạp ông
Dimitrios Galanos (1760-1833 ) đến Ấn Ðộ tu khổ hạnh 40 năm với những người
theo Bà La Môn giáo ở Ba La Nại ( Benares ) và sau mất tại đó. Ông đã dịch
Phạn văn ra tiếng Hy Lạp và soạn cuốn từ điển tiếng Phạn cho những người Hy
Lạp dùng. Hiện tác phẩm viết bằng tay này đang còn giữ ở thư viện quốc gia
Hy Lạp tại Athens.
Alexander Csoma de Korosi
(1774-1842) người Hung Gia Lợi cũng đã sống nhiều năm ở Ấn Ðộ và Tây Tạng.
Ông đã ấn hành đầu tiên cuốn văn phạm và từ điển Tây Tạng bằng Anh văn cũng
như đã cho đăng tãi vào năm 1836 ở tờ Á Châu tạp chí (Asiatic Review) tài
liệu bình giải về bộ Thánh kinh Anjur của Tây Tạng. Sau khi những học giả
người Anh dịch xong ra Anh văn bộ luật Manu- bộ luật cần thiết cho chính
quyền Anh ở Ấn Ðộ- họ lại dịch bộ Mahabharata và The Hyms of The
Rigveda. Không bao lâu nối tiếp những người Anh, có nhiều học giả Pháp
và Ðức cũng thông bác tiếng Phạn và họ có thể dịch trực tiếp được nhiều bản
Phạn văn. Bởi vậy những học giả, thi gia đầu tiên của hai nước này đều chịu
ảnh hưởng sâu đậm của nền văn chương Ấn Ðộ.
Trong lúc sự nghiên cứu Phạn văn
ngày càng phát triển mạnh ở Tây Phương thì sự tham học tiếng Bali (Pa- Lị)
và những kinh điển Phật Giáo bằng Pali cũng được nhiều học giả chú ý. Năm
1826, Eugen Burnouf và Christian- Lessen cho phát hành đầu tiên tập “Tiểu
Luận Về Tiếng Pali” (Essai sur le Pali). Năm 1840 học giả Pháp Eugen Burnouf
diễn thuyết về Phật Giáo tại đại học đường College de France và ông đã chinh
phục được nhiều sinh viên Phật tử. Từ đó, trường này trở thành nơi nghiên
cứu Phật Giáo của nhiều vị học giả khác như R.Roth và Max Muller. Năm
1834-1835, James Prinsep, tòng sự tại sở đúc tiền ở Calcutta là người đầu
tiên đọc hiểu được những bia ký của vua A Dục và những bài kệ của các vị sơ
tổ Phật Giáo Ấn Ðộ.
Năm 1836, George Turnour cho ấn
hành bản dịch ra Anh văn tập Ðại Sử Tích Lan (Mahavamsa) và có in phụ
một phần kinh Pali. Năm 1844 Eugen Burnouf cho xuất bản cuốn sách “Lịch Sử
Du Nhập Phật Giáo Ấn Ðộ” (Introduction à L’histoire du Bouddhisme Indienne).
Trong lời nói đầu của tác phẩm này, tác giả có nhắc đến ông B.H Hodgson,
nguyên người Anh giữ chức tổng trú sứ ở Nepal. Ông đã khá thông hiểu Phật
Giáo và đã cho ấn hành nhiều kinh sách Phật bằng Phạn văn mà lúc bấy giờ đa
số người Tây Phương không biết đến.
Ngoài ra, ông còn viết nhiều
sách Phật bằng Anh ngữ để gởi sang Anh và Pháp. Chính nhờ những tài liệu này
đã giúp cho học giả Pháp Eugen Burnouf soạn tác phẩm “Lịch Sử Du Nhập Phật
Giáo Ấn Ðộ” nói trên. Năm 1825, tờ Á Ðông tạp chí (Journal Asiatic) phát
hành tại St. Petersburg (Nga Xô) cũng có đăng một bài viết về “Lich Sử Ðức
Phật” của ông J.J. Schmidt. Ngoài ra khoảng đầu bán thế kỷ 19, có nhiều tài
liệu Phật Giáo khác phát hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Nhật Bản và
những sách báo Phật Giáo này cũng đã gây được nhiều ảnh hưởng cho đa số học
giả khác ở Tây Phương.
Arthur Schopenhauer (1788-1860)
là một triết gia Ðức rất sùng bái và ham chuộng Phật Giáo, nhưng có điều
không may cho nền Phật Giáo Tây Phương là lúc bấy giờ, về những giáo lý căn
bản của đức Phật ông hiểu rất ít. Ông chỉ biết qua những hình thức Phật Giáo
đương thời ở vài nước như Tây Tạng, Nepal, Trung Hoa, Mông Cổ và Nhật Bản,
chứ ông không phân biệt được sự sai khác giữa Phật Giáo và Ấn Ðộ giáo. Ðây
là điều sai lầm chung của phần đông các học giả thời đó. Ðến hiện nay, vẫn
còn nhiều người Tây Phương nhầm lẫn Phật Giáo với Ấn Ðộ giáo. Schopenhauer
cho rằng triết thuyết của ông giống Phật Giáo; thật ra nó lại gần với Bà La
Môn giáo hơn, một đạo giáo mà ông đã chịu ảnh hưởng qua cuốn Oupnek’hat dịch
từ bộ Áo Nghĩa Thư (Upanishads) ra tiếng Ba Tư bởi một tín đồ Hồi Giáo là
hoàng thân Dara Sahkoh, anh em với vua Mông Cổ Aurengzed.
Theo bản dịch của Anquetil du
Perron, Oupnek’hat nghĩa là Upanishads. Ngay nhan đề cuốn sách ông ta dịch
đã sai thì nội dung cuốn đó chắc gì tác giả đã dịch hoàn toàn đúng. Còn
nghiên cứu bộ Upanishads qua bản Latin dịch ở bản tiếng Ba Tư của hoàng tử
Dara Sahkoh dịch từ nguyên văn Phạn ngữ ra thì đâu phải là công việc dễ. Do
đó Arthur Schopenhauer, một triết gia Ðức danh tiếng, triết gia của những
tâm hồn bi quan đã khiến Phật Giáo lắm khi bị mang tiếng xấu tiêu cực bởi
chính cái triết thuyết của ông, triết thuyết mà Schopenhauer lạm nhận cho nó
là giống với Phật Giáo như trong Bách Khoa Tự Điển đã giải thích sai lầm
rằng “Thuyết thần bí (Mysticism) của ông Schopenhauer có vài điểm tương đồng
với đại thừa Phật Giáo”. Thật ra Schopenhauer ít am tường về Phật Giáo
Nguyên Thỉ (tiểu thừa) và lại càng mù tịt hơn về Phật Giáo đại thừa, vì
nguồn gốc của giáo lý này đều nằm ở những tạng kinh Tây Tạng, Mông Cổ hoặc
Trung Hoa chứ không phải ở bộ Oupnek’hat.
Tuy vậy, năm 1856 người ta thấy
trên bàn trong phòng Schopenhauer có đặt một bức tượng Phật Tây Tạng, trong
lúc ấy ông cũng đặt cho con chó trắng thân yêu của ông cái tên Atman để
chứng tỏ “sự bình đẳng giữa người và thú vật hoặc giữa thú vật và người”.
Riêng ý niệm này của Schopenhauer đủ cho ta thấy có sự hòa hợp giữa triết
thuyết của ông với Ấn Ðộ giáo và các nhà nghiên cứu Phật Giáo cũng không e
ngại bảo rằng thật là một sai lầm lớn nếu có ai cho triết lý bi quan của
Schopenhauer là đại thừa Phật Giáo. Vì Phật Giáo không dạy một cách máy móc
rằng con vật bình đẳng với con người, bởi lẻ loài vật thuộc khổ cảnh còn con
người lại thuộc lạc cảnh. Như vậy rõ thật Schopenhauer là một con người có
tâm trạng yếm thế đúng với danh từ “kẻ chán đời” mà Bách Khoa Tự Ðiển đã gán
cho ông.
Bộ kinh Pali đầu tiên phát hành ở
Tây phương tại Leipzig (Đức Quốc). Năm 1848 là bộ Anechota Palica của ông
Friedrerich Spiegel. Trong cuốn này, ngoài kinh Pali có thêm phần dịch và
chú thích bằng Ðức ngữ. Năm 1855, cuốn kinh Pháp Cú toàn tiếng Pali với bản
dịch Latin của ông Fausboll đầu tiên được ấn hành tại Tây Phương ở
Kopenhagen (Ðan Mạch). Năm 1862, cuốn kinh này cũng được ông Albrecht Weber
dịch ra tiếng Ðức. Và giữa lúc các nhà nghiên cứu Ấn Ðộ ngữ dịch thêm nhiều
bộ kinh Pali, những học giả Phật tử khác cũng đã cố gắng tìm cách phổ biến
sâu rộng Phật Giáo vào quần chúng. Hiện nay, phần lớn những bộ kinh Pali, đã
được hội “Pali Text Society” dịch ra Anh ngữ hoặc Ðức văn. Nhiều bộ kinh
Phật giá trị khác cũng đã được dịch sang tiếng Ý.
Vào khoảng những năm đầu của
chính thể Cộng Sản Xô Viết cũng có nhiều sách Phật, nhất là đại thừa ấn hành
ở Leningrad (Nga) và các nơi khác. Tại Hung Gia Lợi và những quốc gia gần bể
Baltic (thuộc Ðại Tây Dương) đều có nhiều kinh sách Phật Giáo in bằng ngôn
ngữ của nước họ. Nhiều kinh sách và từ điển Pali cũng được ấn hành tại Danes
(Ðan Mạch) và Dutch (Ðức). Hiện giờ ở Yugoslavia (Nam Tư) cũng có nhiều học
giả Phật tử bắt đầu dịch kinh Pali và gần đây ở Lỗ Mã Ni (Rumania), ông viện
trưởng đại học quốc gia Bucharest có nhờ tôi gởi đến vị chủ bút ban biên tập
bộ Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism) 100 cuốn sách Phật
tìm thấy ở thư viện của những đại học và các phân khoa khoa học tại Lỗ Mã
Ni. Và khoảng vài ba năm trước đây, sau khi giáo sư Thomas Garigue Masaryk
người Tiệp Khắc (Czechoslovakia) qua đời, người ta cũng đã tìm thấy tại thư
viện gia đình của ông 27 cuốn sách Phật, đặc biệt nhất là bộ A Tỳ Ðạt Ma (Abhidhamma).
Mấy năm gần đây, ngày lễ Phật Đản
cũng đã được trường đại học khoa học tổ chức trọng thể tại Prague (Tiệp Khắc)
và ở Ba Lan (Poland) một pháp hữu của tôi đã giảng về Phật Giáo theo những
đề tài do trường đại học nêu ra và lần thuyết pháp đầu tiên đó đã được đài
phát thanh Ba Lan truyền đi dưới sự bảo trợ của đại học đường khoa học Ba
Lan. Những Phật tử ở Ba Lan và Tiệp Khắc đã từng yêu cầu các đạo hữu ở Tích
Lan cũng như các nước Phật Giáo Ðông Phương giúp đỡ những Phật sự bằng cách
yêu cầu các chính phủ Cộng Sản tại đó cho phép họ được tự do phát triển Phật
Giáo dễ dàng theo ý muốn của họ. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức Phật Giáo ở Anh,
Mỹ, Pháp và Ðức mà tất cả ai cũng đều biết.
Năm 1903, bác sĩ Kart
Seidenstuecker thành lập hội Phật Giáo Ðức và ấn hành tạp sang “Phật Học” (Buddhist
Review). Năm 1907, hội Phật giáo Anh ra đời và những tạp chí Phật Giáo
Anh ngữ đầu tiên gởi sang Anh quốc đều ấn hành tại Miến Ðiện. Cuối thế kỷ 19
và đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện tại Miến Điện nhiều vị Tỳ Kheo Tây
Phương. Khoảng vào năm 1907 và 1908, một phái đoàn truyền giáo Miến Điện
được gởi sang Anh quốc và sau này cũng có nhiều đoàn truyền giáo Miến Điện
tiếp tục sang thuyết pháp tại Anh, Ðức, Mỹ, Pháp cùng nhiều quốc gia khác và
họ đã tận lực phổ biến Phật Giáo tại các nước Âu Châu. Hơn nữa, những đại
hội Phật Giáo thế giới, các cuộc lễ kỷ niệm Đức Phật nhập Niết Bàn tổ chức
tại nhiều nước Phật Giáo Á Châu mấy năm vừa qua với những buổi phát thanh,
chiếu phim và ấn hành những sách báo, tạp chí nói về Phật Giáo Á Châu cũng
đã giúp ích nhiều cho sự bành trướng Phật Giáo tại các quốc gia Tây Phương.
(Trích dịch từ
tạp chí The International Buddhist News Forum) |