Đạo Phật và Nền Văn Hóa Việt Nam
HT. Thích Minh Châu
Như mọi người đều biết vào thế kỷ thứ nhất
sau kỷ nguyên, đạo Phật du nhập vào Việt Nam trong khi đất nước đang bị
phong kiến phương Bắc đô hộ. Trước đó, nhân dân Việt Nam đã xây dựng được
một nền văn hóa rực rỡ, độc đáo, có bản sắc riêng, mà hiện nay các nhà sử
học và khảo cổ học gọi là "Nền văn minh sông Hồng". Đó là một nền văn minh
xóm làng dựa trên một nông nghiệp trồng lúa trước với kỹ thuật luyện đồng và
luyện sắt đã phát triển từ rất sớm. Phong kiến phương Bắc đã tiến hành một
sự đồng hóa cưỡng bức về văn hóa nhưng dân chúng Việt Nam phải đấu tranh
quyết liệt để bảo vệ nền văn hóa truyền thống và cũng là để bảo vệ sự sinh
tồn của dân tộc.
Người Việt Nam vốn
có một thái độ bao dung cởi mở về văn hóa và tín ngưỡng, ít có những thành
kiến tôn giáo, sẵn sàng chọn lọc trong những nền văn hóa bên ngoài những yếu
tố làm phong phú nền văn hóa độc đáo của họ. Người Việt Nam cũng có thể chấp
nhận những tín ngưỡng khác nhau từ bên ngoài và dung hòa chúng với tín
ngưỡng cổ truyền.
Phật giáo đã bắt rễ
dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ
và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên. Các
nhà sư Ấn Độ và Trung Á đã đến Việt Nam vào khoảng đầu công nguyên.
Giao Châu - Việt Nam thời đó - đã là nơi dừng chân của nhiều
khách thương Ấn Độ cũng như các Tăng sĩ Ấn Độ. Thương gia Ấn Độ thường phải
ở lại đây cho đến năm sau, chờ gió mùa đông bắc để trở về Ấn Độ. Còn một số
nhà sư Ấn Độ có thể ở lại lâu hơn. Cũng từ đây, một số thành tựu văn hóa vật
chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ được người Việt tiếp thu, trong đó có Phật
giáo. Sự tiếp nhận này dường như không gây ra sự thay đổi nào đột ngột trong
đời sống tinh thần của người Việt. Họ thờ cúng Chư Phật cũng như đã thờ cúng
các vị thần vốn có của họ.
Trung tâm Phật giáo
cổ nhất ỏ Việt Nam là Luy Lâu, cách Hà Nội khoảng 30 km về phía Bắc. Ở đây
có bốn ngôi chùa được dựng từ thời các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đến đây, có tên
là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức Mây, Mưa, Sấm, chớp. Bốn ngôi
chùa này đồng thời thờ bốn vị nữ thần là Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Đàn, Bà Tướng.
Rõ ràng đó là các nữ thần nông nghiệp. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn
thờ các loại nữ thần đó trong các chùa này. Như vậy là ngay trong bước du
nhập đầu tiên, Phật giáo đã được những người nông dân trồng lúa Việt Nam
dung hòa với các tín ngưỡng cổ truyền của họ.
Từ thế kỷ hai trở đi.
Phật giáo Giao Châu đã có những bước phát triển đáng kể. Tăng đoàn đã khá
đông. Nhiều chùa tháp được dựng. Các nhà sư Ấn Độ và Trung Á đã bắt đầu tổ
chức việc dịch kinh ở Luy Lâu. Ngoài nhiều bộ kinh đã được dịch, đã xuất
hiện những quyển sách bàn luận về Phật giáo. Những trung tâm dịch kinh và
nghiên cứu Phật giáo đồng thời cũng là những trung tâm giáo dục. Những thế
hệ Tăng sĩ người Việt dần dần được hình thành. Chẳng hạn như Đạo Thanh là
học trò của Chi Cương Lương Tiếp (Kalàsìvi) trong thế kỷ III, và Huệ Thắng
là học trò của Đạt-Ma-Đề-Bà (Dharmadeva) trong thế kỷ V... Từ thế kỷ VI trở
đi, Phật giáo ở Việt Nam càng phát đạt. Các phái Thiền Tông Trung Quốc đã du
nhập vào Việt Nam trong thế kỷ VI và thế kỷ IX. Cũng vào thời gian này, xuất
hiện nhiều cao tăng người Việt, có đạo đức sâu rộng, trong số đó có những
người như Phụng Đình Pháp sư, Duy Giám Pháp sư, được vua nhà Ðường mời sang
Trường An (Chánh An) để giảng kinh luận. Nhiều cao tăng Việt Nam khác cũng
đã đến Ấn Độ như Vận Kỳ Giải Thoát Thiên (tên Sanskrit là
Moksadeva), Khuy Xung (tên Sanskrit là Prajnadeva). Đặc
biệt là ngài Đại Thừa Đăng (tên Sanskrit là Mahayànapradìpa),
đã nhiều năm tu hoc ở Ấn Độ, tinh thông tiếng Sanskrit, đã chú giải tác phẩm
Duyên Sinh Luận (Nidàna-sastra). Vị này đã tới học ở tự viện Nalanda và cuối
cùng mệnh chung ở chùa Parinirvana tại Kushinagar vào thế kỷ VII.
Cũng một phần qua
các hoạt động của các tăng sĩ như vậy mà văn hóa Việt Nam đón nhận ảnh hưởng
của văn hóa thế giới. Nhưng điều quan trọng trong thời kỳ này là Phật
giáo đã góp phần phát triển và bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Khi đã thấm sâu vào
tín ngưỡng của nhân dân, Phật giáo đã có vai trò quan trọng trong đời sống
văn hóa của người Việt. Các ngôi chùa lại trở thành các trung tâm văn hóa
giáo dục trong các làng xã. Chùa không phải chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà
còn là nhà trường. Các em bé đến chùa không phải chỉ để sau này trở thành
các Tăng sĩ mà là để học chữ. Chư Tăng không những làm việc tôn giáo mà còn
là thầy học hoặc thầy thuốc ở nông thôn. Chư Tăng là người hiểu biết trong
xóm làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân
kính trọng. Chính vì vậy, rất tự nhiên, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước, Phật giáo đã đúng vào phía những người yêu nước. Nhiều Tăng sĩ trong
hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những
tín đồ Phật giáo đã trực tiếp cầm đầu nhân dân đứng lên làm cuộc chiến tranh
giải phóng. Cuộc khởi nghĩa của Lý Phật Tử cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII là
một ví dụ. Trong tiếng Việt, "Phật tử" có nghĩa là tín đồ Phật giáo. Như vậy
là Phật giáo Việt Nam, trong những bước phát triển đầu tiên, đã nhập thân
vào dân tộc. Chính vì vậy mà người Việt Nam không ngạc nhiên khi thấy trong
lịch sử, vua Lý Nam Đế, khi xây dựng một nhà nước độc lập ngắn ngủi vào thế
kỷ VI, đã cho xây ngôi chùa có tên là Khai Quốc, nghĩa là "mở nước". Chùa
Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc ngày nay ở Hà Nội.
Do vai trò của Phật
giáo trong cuộc chiến đấu giải phóng, khi nền độc lập của Việt Nam được
giành lại trong thế kỷ X, Phật giáo đã có một vị trí to lớn trong xã hội. Từ
thế kỷ X đấn thế kỷ XIV là giai đoạn phát triển cực thịnh của Phật giáo Việt
Nam, mà đỉnh cao là trong hai triều đại Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400).
Phật giáo trở thành quốc giáo. Nhiều cao tăng làm cố vấn cho nhà vua trong
công việc đối nội và đối ngoại. Nhiều nhà vua tin sùng Phật giáo, sau khi
truyền ngôi cho con, đã xuất gia tu hành. Phần lớn quan lại quý tộc là tín
đồ Phật giáo.
Chùa tháp mọc lên
khắp nơi trong nước. Ngày nay, ở những tỉnh miền núi của Việt Nam như Hoàng
Liên Sơn, Hà Tuyên, các nhà khảo cổ học đã tìm được di tích những ngôi chùa
cổ trong thời kỳ này. Điều đó có nghĩa là bấy giờ Phật giáo đã thâm nhập vào
các dân tộc thiểu số trên đất Việt Nam. Phật giáo đã thấm sâu vào các làng
xã. Người Việt Nam chúng ta có câu: "Đất vua, chùa làng". Đất của vua có
nghĩa là đất đai trong nước thuộc quyền sở hữu của nhà vua, một hình thức sở
hữu ruộng đất phổ biến ở phương Đông cổ đại. Còn chùa là của làng, nói lên
rằng mỗi công xã có một ngôi chùa riêng. Nhà chùa thường được hưởng hoa lợi
trên một số ruộng đất gọi là ruộng chùa, lấy ra trong bộ phận ruộng công của
làng xã. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam hiện nay cho rằng đình, ngôi nhà
chung của cư dân làng xã mà ở đó thường tiến hành những sinh hoạt công cộng,
chỉ xuất hiện về sau này. Còn trong thời kỳ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, chưa có
đình, mà chùa là nơi sinh hoạt công cộng của cư dân làng xã. Như vậy trong
giai đoạn này chùa không chỉ là nơi tiến hành các sinh hoạt tôn giáo, mà
cũng như đình sau này, còn là nơi sinh hoạt văn hóa của dân làng xã. Làng xã
Việt Nam bao giờ cũng là nơi ấp ủ sức sống của văn hóa truyền thống của
người Việt Nam . Như vậy là từ trong cái tế bào của xã hội Việt Nam cổ
truyền, văn hóa dân tộc đã tiếp xúc với Phật giáo.
Sau thế kỷ X, cùng
với việc giành lại chủ quyền đất nước văn hóa Việt Nam bước vào một thời kỳ
phát triển rực rở, bừng lên như môt cuộc hồi sinh hay phục hưng. Đặc điểm
của nền văn hóa trong giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là biểu hiện một
ý thức dân tộc rất cao.
Trong việc xây dựng
nền văn hóa dân tộc thời đó, Phật giáo Việt Nam có những đóng góp to lớn. Có
thể nói rằng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV vừa mang tính chất
dân tộc vừa mang tính chất Phật giáo. Và hai đặc điểm này hoàn toàn không
mâu thuẫn nhau.
Như đã nói ở trên,
Phật giáo Việt Nam đã tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc từ trước thế
kỷ X, nên khi giành lại được nền độc lập, các Tăng sĩ vẫn mang một ý thức
quốc gia mạnh mẽ. Nhiều cao tăng như Khuông Việt (tên hiệu này có nghĩa là
"giúp nước Việt"), Vạn Hạnh, Pháp Thuận đã thực sự tham gia hoạt động chính
trị với mục đích giữ gìn một nhà nuớc độc lập mới được xây dựng. Phật giáo
thời kỳ này mang một màu sắc nhập thế rõ ràng, hay nói cho đúng hơn, có
nhiều chiều hướng phục vụ quốc gia dân tộc.
Vả lại, các nhà sư
thời kỳ này đều thuộc các phái Thiền. Đối với các Thiền sư, mọi công việc
của đạo của đời đều không ngăn cản đạt được bát nhã (Prajna). Vì vậy ngồi
trên chiếu thiền, hay lên yên đuổi giặc, các vị ấy đều tự do. Tuệ Trung
thượng sĩ, một nhà thiền trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, đã trình bày
điều đó trong hai câu thơ rất hay:
"Đi là thiền, mà
ngồi cũng là thiền,
Bao giờ cũng là một
đóa sen tươi trong lò lửa đỏ rực. "
Ý thức dân tộc biểu
hiện mạnh mẽ trong văn học và nghệ thuật. Thời kỳ này mà chư Tăng là người
mở đầu dòng văn học đó. Bài thơ sớm nhất mà ngày nay được biết đến trong
lịch sử văn học Việt Nam là của pháp sư Khuông Việt, cố vấn cho các vua Đinh
và Lê trong thế kỷ X. Đó là một bài thơ tiễn môt sứ giả Trung Quốc về nước.
Bài thơ được làm trong công việc ngoại giao, biểu hiện một ý thức quốc gia
mạnh mẽ nhưng vẫn có tính nghệ thuật cao.
Ngày nay, những gì
còn lại trong kho tàng văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, tuyệt
đại bộ phận là văn học Phật giáo. Hầu hết là thơ của các thiền sư. Trong số
đó có những bài thơ rất hay, đã giữ một vị trí rất xứng đáng trong lịch sử
thi ca Việt Nam.
Đây là bài thơ ngắn của nhà sư Mãn Giác(1052-1096):
"Mùa xuân đi trăm
hoa rụng,
Mùa xuân đến trăm hoa nở,
Việc đời trôi qua trước mắt,
Tuổi già đến từ trên đầu.
Nhưng chớ nói rằng
mùa xuân tàn thì tất cả các hoa đều rụng,
Đêm hôm qua trước sân, một cành hoa mai đã nở".
Có thể các tác giả
bài thơ muốn dùng hình ảnh cành hoa mai để biểu hiện bản thể bất sinh bất
diệt của vạn pháp. Nhưng mọi người Việt Nam lại tìm thấy ở bài thơ này một
cảm xúc về sự vươn lên của cuộc sống không gì dập tắt được.
Và đây là bài thơ nhỏ của Thiền sư Không Lộ (mất năm 1119):
"Chọn được nơi ở
trên một thửa đất đẹp.
Cái thú ở thôn quê khiến cho suốt ngày, niềm vui không dứt,
Có lúc, ta chèo lên đỉnh núi cao chót vót,
Kêu dài một tiếng, làm lạnh cả bầu trời.
Trong khi hứng siêu
thoát rất độc đáo của tác giả. người Việt Nam lại thấy một sự khẳng định con
người giữa tự nhiên mênh mông.
Văn học Việt Nam từ
thế kỷ XII đến thế kỷ XIV phong phú hơn, đa dạng hơn và có một tinh thần dân
tộc sâu sắc hơn. Nhưng văn học Phật giáo vẫn còn là một bộ phận quan trọng,
đó là chưa kể ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học nói chung. Một nhà thơ nổi
tiếng có đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam là Pháp sư Huyền Quang
(1254-1334), giỏi Phật học nhưng thơ rất bình dị. Trong thơ Ngài, thiên
nhiên hiện lên tuyệt đẹp và rung cảm của con người thật là tươi mát. Nhưng
đôi khi, bên cạnh những bức tranh đẹp của thiên nhiên, ta gặp những dòng thơ
chia sẻ nỗi đau khổ của con người. Chẳng hạn bài thơ của Ngài viết khi gặp
những người tù đi đày bị áp giải:
"Ta muốn viết một
bức thư bằng máu để nhắn tin
Như chim nhạn cô đơn bay vút qua tầng mây,
Đêm nay, bao nhiêu nhà buồn dưới ánh trăng,
Hai nơi xa nhau nhưng cùng một nỗi đau".
Huyền Quang là tổ
thứ ba của phái thiền Trúc Lâm. Việc xây dựng một phái thiền riêng trong
thời Trần cũng là một biểu hiện của ý thức dân tộc. Vị tổ thứ nhất của phái
Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người anh hùng dân tộc, nhà sư
và cũng là nhà thơ.
Một trào lưu văn học
có tính chất dân tộc thời Trần là sáng tác bằng ngôn ngữ Việt Nam và ghi lại
bằng thứ chữ Việt Nam gọi là chữ Nôm. Trần Nhân Tông, Huyền Quang cũng đã để
lại những tác phẩm văn học Phật giáo bằng chữ Nôm. Những tác phẩm đó ngày
nay vẫn còn, và trở thành những tài liệu vô cùng quý báu .
Sự hưng thịnh của
Phật giáo trong các thế kỷ X-XIV ở Việt Nam đã kéo theo sự phát triển của
nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ. Nhiều chùa tháp đã mọc lên ở các
kinh đô Hoa Lư, Thăng Long (Hà Nội ngày nay) cũng như ở nhiều nơi khác trong
nước. Đáng tiếc là phần lớn các kiến trúc này nay không còn nữa, do thời
gian và do chiến tranh. Ngày nay chỉ còn lại tháp đá Phổ Minh (tỉnh Hà Nam
Ninh) 14 tầng, cao 21m, xây dựng năm 1305 và tháp gạch Bình Sơn (tỉnh Vĩnh
Phú), 11 tầng, cao 15m, xây vào thế kỷ XIV là còn khá nguyên vẹn. Đó là
những niềm tự hào kiến trúc cổ Việt Nam.
Cùng phát triển với
kiến trúc là điêu khắc. Tiêu biểu cho điêu khắc thời kỳ này, ngoài những phù
điêu trang trí cho các kiến trúc Phật giáo là những pho tượng bằng đá như
tượng A Di Đà (Amitabha) ở chùa Phật Tích (tỉnh Hà Bắc), các tượng kim Cương
(Vajrapani) ở chùa Long Đọi (tỉnh Hà Nam Ninh). Đó là những pho tượng đẹp
thời Lý. Thời Trần ngày nay ít tượng hơn, nhưng lại tìm được rất nhiều bệ
tượng bằng đá. Đó là những khối chữ nhật ghép đá mà trên đó những nhà điêu
khắc đã trang trí bằng các phù điêu.
Phong cách điêu khắc
Lý mềm mại, phong cách điêu khắc Trần khoẻ khoắn. Một hình tượng trang trí
phổ biến của thời kỳ này là hình hai con rồng uống khúc nằm giữa hai chiếc
lá cây bồ đề. Lá bồ đề tượng trưng cho Phật giáo và rồng tượng trưng cho dân
tộc Việt Nam. Thủ đô Hà Nội thời đó có tên là Thăng Long, có nghĩa là "rồng
bay lên". Một lần nữa, ta lại thấy sự quyện nhập giữa tinh thần Phật giáo và
ý thức dân tộc trong các biểu hiện của văn hóa giai đoạn này.
Từ giữa các thế kỷ XIV, Nho giáo bắt đầu lớn
mạnh và Phật giáo bị chèn ép. Nhưng từ giữa thế kỷ XVI, Phật giáo Việt Nam
bắt đầu phục hồi và hưng khởi lại. Thời kỳ phát triển này đạt đến đỉnh cao
của Phật giáo vào thế kỷ XVIII. Phật giáo hưng khởi trở lại, kiến trúc và
nghệ thuật tạo hình Phật giáo cũng theo đó mà phát triển. Nhiều ngôi chùa
lớn ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay là được xây dựng trong thời
kỳ này. Tượng Phật thời kỳ này trở lên đa dạng. Đặc biệt là xuất hiện nhiều
tượng Tuyết Sơn và tượng Quan Âm (Avalokitesvara) đẹp. Nổi tiếng nhất là
tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, tạc năm 1656, ở chùa Bút Tháp (tỉnh Hà
Bắc). Bên cạnh tượng Phật là tượng La-hán (Arhat) mà đặc sắc nhất là loạt
tượng La-hán ở chùa Tây Phương (Hà Nội), cuối thế kỷ XVIII.
Đây cũng là một thời kỳ xuất
hiện nhiều tác phẩm văn học Phật giáo mà nội dung phổ biến là sự dung hòa tư
tưởng Phật giáo với tinh thần Nho giáo và Đạo giáo. Nhiều nhà văn Việt Nam
cũng đã chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
Ngay Nguyễn Trãi,
nhà tư tưởng và nhà yêu nước, cũng đã từng viết những dòng thơ:
Tào Khê rửa ngàn tăm
suối [1]
Sạch chẳng còn một
chút phàm
Còn nhà thơ lớn Nguyễn Du, một tên tuổi chói sáng trong lịch
sử văn học Việt Nam, thì lại tỏ ra có một căn bản vũng chắc về thiền học,
khi ông viết:
Tôi đã học kinh Kim
Cang hơn nghìn lần,
Trong đó có nhiều điều sâu sắc tôi chưa hiểu được .
Nhưng đến khi đứng trước đài đá chia kinh nà
mới biết kinh không
có chữ là kinh chân chính.
[2]
Nay nhìn lại sự phát
triển của nền văn hóa Việt Nam, chúng ta không thể không chú đến sự đóng góp
của đạo Phật. Đạo Phật đã có mặt trên đất nước này gần 2000 năm. Vai trò
Phật giáo đã đóng góp trong việc xây dựng nền văn hóa Quốc gia Việt Nam
không phải luôn luôn giống nhau ngang qua lịch sử. Nhưng thật kỳ diệu là Đạo
Phật không bao giờ xây dựng lại nền văn hóa dân tộc. Khi nào nền văn hóa dân
tộc bị lâm nguy có thể bị tiêu diệt, thời phần đông Phật tử với nhân dân
Việt Nam đã đứng lên để bảo vệ.
Nhân dân Việt Nam
tiếp thu từ Đạo Phật những gì thích hợp với tâm tư trí óc của mình, như thế
trí tuệ và từ bi, tình thương đén mọi loài hữu tình, sự cương quyết cố gắng
làm điều thiện, điều lành, sự giải thoát tâm hồn, và sự mong muốn hòa bình
và hạnh phúc cho mọi gia đình. Đức Phật hiện ra trong các truyện thần thoại
Việt Nam, với nụ cười hiền lành, đem lại hạnh phúc cho mọi người. Ví dụ ông
Bụt đã cho Tấm, cô gái Cinderella Việt Nam trong các câu truyện nhân gian,
những áo quần đẹp nhất để đi dự dạ hội... Ngang qua các thần thoại và các
bài ca dân gian, ông Bụt hiền lành đã hiện vào trong giấc mộng của các trẻ
em Việt Nam. Những người lớn tuổi đã tìm trong Đức Phật một gương mẫu noi
theo để chống lại các cám dỗ tội lỗi, nhờ vậy gìn giữ sự trong sáng trong
các hành vi và tâm tư của mình.
Do những đức tánh
như vậy Đạo Phật đã tồn tại hài hòa tốt đẹp với tâm tư và văn hóa Việt Nam
trải qua 2000 năm. Hiện nay các Phật tử Việt Nam đang cố gắng làm cho sinh
động và đề cao những truyền thống tốt đẹp của Đạo Phật quá khứ và cùng với
nhân dân Việt Nam đang xây dựng một nền văn hóa mới phù hợp với thời đại mới.
HT. Thích Minh
Châu

Chú thích:
[1] Tào Khê (Tsao Chi): tên con sông nhỏ ở Trung Quốc, nơi
đó có chùa Bảo Lâm (Pao-Lin) mà nhà sư Huệ Năng (Huei-Neng), tổ thứ 6 của
Thiền tông Trung Quốc đã tu hành.
[2] Chỉ cái đài
bằng đá mà nơi đó, Thái tử Chiêu Minh (Chao-ming), con vua Lương Vũ Ðế (Liang
Wu-di, 501-549) ở Trung Quốc phân phát kinh Phật.
|