THÔNG ÐIỆP TÌNH THƯƠNG CỦA ÐỨC
PHẬT
Nguyên tác:
Dr. Rajendra Prasad
Chuyển ngữ:
Hoà Thượng Thích Trí
Chơn
Giới thiệu tác giả:
Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi
tiếng. Tiến sĩ Prasad đã tham gia rất sớm phong trào tranh đấu chống thực
dân Anh để giành độc lập tự do cho xứ sở. Sau ngày Anh quốc trao trả độc lập
cho Ấn Ðộ vào năm 1947, hai lần ông được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Năm
1947-1949, ông giữ chức Chủ Tịch Hội Ðồng Lập Hiến, và được bầu làm Tổng
Thống Ấn Ðộ đầu tiên từ năm 1952-1962. Ông mất năm 1963 . (Chú
thích của dịch giả - HT Thích Trí Chơn)
Trải
qua hơn 25 thế kỷ, giáo lý đức Phật và bức thông điệp của Ngài lưu truyền
cho nhân loại vẫn còn vững chắc tồn tại với thời gian. Trong những sự nghiệp
vĩ đại được xem như vĩnh cửu và bất biến, ta phải kể trước nhất là giáo pháp
của đức Phật. Bức thông điệp hòa bình và từ bi của Ngài hiện nay vẫn còn sức
thu hút chúng ta, mặc dù thế giới đã trải qua nhiêu thế kỷ biến đổi xã hội
và lịch sử. Giáo pháp của đức Phật bao hàm những triết thuyết mà chúng đã
bồi đắp khá nhiều cho nền tư tưởng hiện đại. Ðức Phật là một nhà trí tuệ, và
chân lý được Ngài xem như điều tối thượng, đúng như người ta đã gọi Phật
Giáo là tôn giáo của lý trí.
Ngài dạy mọi người hãy tự thanh
tịnh hóa bản thân trong ánh sáng trí tuệ của chính mình. Ðể đạt mục đích cao
cả này, đức Phật đã dạy chúng ta Bát Chánh Ðạo, bao gồm tám nguyên tắc sống
chân chính, được thể hiện qua năm giới cấm, đặc biệt là không sát sanh,
không trộm cấp, không vọng ngữ, không tà hạnh và không uống rượu. Theo đức
Phật, người nào giữ gìn không phạm năm giới điều vừa kể, và luôn hành động
sáng suốt theo lý trí, họ có thể chứng quả Niết Bàn. Thật vậy, những phương
pháp sống này có một giá trị quốc tế và không một xã hội văn minh tại bất cứ
quốc gia nào trên thế giới có thể đưa ra những lời chỉ trích hoặc phản đối
lại chúng.
Ðặc điểm khác của giáo lý đức
Phật là bất cứ điều gì Ngài dạy đều xuất phát từ kinh nghiệm bản than; và đã
được Ngài chứng minh bằng hành động thực tế. Cho nên thực hành là đặc tính
của Phật Giáo. Ðức Phật chỉ cho chúng ta con đường dẩn đến Niết bàn, nhưng
cùng lúc Ngài dạy rằng, mỗi cá nhân phải cố gắng tu tập để đạt đến mục đích
ấy. Nói khác, đức Phật chỉ là bậc Thầy hướng dẫn, và hành động đi theo hay
không là tùy thuộc ở mỗi chúng ta.
Ngài cũng bảo rằng mọi người
phải tự thắp lên ngọn đuốc của chính mình, và trong đêm trường dày đặc bóng
tối, con người phải tìm lấy hướng đi với sự soi sáng của ngọn đèn lý trí.
Ngũ giới và Bát Chánh Ðạo là phương tiện giúp con người tiến trên con đường
ấy. Ðức Phật xem con người là tiêu điểm giáo lý của Ngài. Và lý trí chiếm
một địa vị quan trọng, bởi đó là đặc tính căn bản phân biệt con người với
những loài chúng sanh khác.
Với gương sáng tu tập của đức
Phật Ngài đã trình bày những phương pháp để con người có thể đạt đến cảnh
giới toàn thiện bằng cách hành động theo con đường từ bi và trí tuệ. Trong
những lời Ngài dạy cho các Tỳ Kheo, không bao giờ Ngài tự nhận mình là nhân
vật cao hơn người. Thật vậy, đức Phật đã tuyệt đối phủ nhận Ngài là nhân vật
thần thánh cũng như là thiên sứ. Ðức Phật dạy chính nhờ ở năng lực thiền
định, phát triển trí tuệ mà Ngài đã giác ngộ. Nói khác, là do ở ý chí kiên
trì tu theo Bát Chánh Ðạo của Ngài vậy.
Nghiệp lực hay hành động cũng
được xem như lý thuyết căn bản của Phật Giáo. Ðức Phật tin vào sự không thể
tránh của nghiệp lực, cùng tính bất biến của luật nhân quả, nhưng Ngài cũng
xác nhận rằng con người có thể hoàn toàn tự do để làm lành và tránh ác, nhờ
hành động theo lý trí và Bát Chánh Ðạo. Theo đức Phật, cuộc sống không chỉ
bắt đầu bằng sự sanh và kết thúc bởi sự chết. Mà mọi chúng sanh đều phải
trải qua vô lượng kiếp sống, và dòng sinh tử luân hồi này chỉ chấm dứt khi
nào chúng ta đã hoàn toàn giác ngộ.
Hành động thiện ác, xấu tốt luôn
luôn là vấn đề quan tâm của nhân loại. Con người cần biết điều xấu để tránh,
cũng như điều tốt để theo. Sau khi trình bày giáo lý Bát Chánh Ðạo, đức Phật
đã khuyên nhân loại nên thực hành theo chúng, với mục đích đạt đến giác ngộ
và giải thoát, chứ không phải mong được sanh lên các cõi trời sung sướng sau
khi chết. Nếu đức Phật dạy rằng cuộc sống là khổ đau, thì cùng lúc Ngài cũng
chỉ bày cho chúng ta phương pháp diệt trừ sự đau khổ đó. Một cách tổng quát,
chúng ta thấy rằng giáo lý đức Phật bao gồm những đức tính căn bản như từ
bi, hỷ xả, bất bạo động và hoà bình.
Tôi nghĩ, chính nhờ những
nguyên tắc xử thế tốt đẹp này mà Phật Giáo xưa kia, đã từng được bành trướng
mạnh mẽ và nhiều quốc gia ham chuộng. Vô số người nam nữ đã tìm thấy sự an
lạc và hạnh phúc chân thật nhờ biết hành động theo Phật Giáo. Những lời dạy
và phương pháp sống theo Phật Giáo này, đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền tư
tưởng Ấn Ðộ. Ngày nay, chúng ta thấy các truyền thống tập quán đó đã góp
phần to lớn vào gia tài văn hóa của đất nước chúng ta.
Lịch sử Ấn Ðộ đã lưu lại qua
giáo lý đức Phật nhiều công trình vĩ đại trong mọi lãnh vực văn hóa, nghệ
thuật, triết học, văn chương và tổ chức xã hội. Lý tưởng của Ngài đã giúp
cho dân tộc quốc gia này thực hiện được nhiều nỗ lực xây dựng lớn lao. Biết
bao nhiêu kinh điển Phật Giáo chép bằng cổ ngữ Pali và Sanskrit (Phạn) tồn
tại đến ngày nay thực sự đã góp một phần lớn vào gia tài văn hóa của chúng
ta. Không những thế, kho tàng kinh điển này cũng đã tô bồi phong phú cho sự
phát triển văn hóa của nhiều quốc gia Á Châu khác. Lịch sử chúng ta đã từng
trải qua một thời đại hoàng kim với sự xuất hiện của nhiều trường đại học
danh tiếng như Takshashila (1) Vikramasila (2) Nalanda (3) v.v…..được xem
như là trung tâm nghiên cứu nền triết học và văn chương Á Châu.
Những quốc gia như Trung Hoa,
Ðại Hàn, Tây Tạng, Hồi Quốc, Mông Cổ, Mã Lai, Nam Dương, Miến Ðiện xưa kia
đều có liên hệ tinh thần chặt chẽ với các Ðại Học trên. Hiện nay, tại các
quốc gia này đang còn lưu lại hàng nghìn pho kinh điển Phật Giáo chép bằng
quốc ngữ của họ, trong khi tại Ấn Ðộ những bản kinh chính đó lại không còn.
Suốt trong tám thế kỷ từ thời đại vua A Dục (4) đến triều đại Guptas (5)
Phật Giáo đã trở nên nguồn sáng tạo chính yếu cho mọi ngành mỹ thuật của
chúng ta.
Nghệ thuật Phật Giáo cũng đã gây
ảnh hưởng sâu xa cho nhiều khuynh hướng nghệ thuật và văn hóa tại các quốc
gia Á Châu như A Phú Hản, Ðông Á, Trung Á, Trung Hoa và Tích Lan v. v…..Ngày
nay, sự phát triển nghệ thuật của Ấn Ðộ đang còn chịu ảnh hưởng nhiểu bởi
nghệ thuật Ajanta (6) của Phật Giáo. Giáo pháp của đức Phật, những trào lưu
tư tưởng phát triển bởi Phật Giáo trong mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật,
văn chương, theo thời gian qua, đã chiếm một phần lớn trong đời sống, tập
quán và văn hóa của Ấn Ðộ. Không riêng Ấn Ðộ mà toàn thế giới ngày nay đang
khẩn thiết cần đến bức thông điệp hòa bình, tiến bộ và xây dựng của đức Phật.
Lòng tham theo đức Phật dạy là
nguyên nhân chính của mọi khổ đau. Ngài tin rằng một khi con người biết xã
bỏ tất cả những dục vọng, lúc ấy sự khổ tự nhiên sẽ chấm dứt. Ðời sống và
lòng từ bi xót thương mọi chúng sanh của đức Phật sẽ vĩnh cửu tồn tại như
một lý tưởng siêu việt trên thế giới. Ngài dạy rằng bạo tàn không bao giờ có
thể chấm dứt bằng tàn bạo, mà chỉ có tình thương và sự thông cảm, hiểu biết
mới có thể tiêu diệt được nó. A Dục Vương là người đã biện minh hùng hồn cho
sự thật của lý thuyết này. Bởi cảm nhận sâu xa mọi nỗi khổ đau do nhà vua
gây ra trong trận chiến Kalinga (7) mà Ngài đã cố gắng thực hiện ý nghĩa của
chân lý trên. Không những vua A Dục đã áp dụng nó trong đời sống cá nhân, mà
ngài còn lấy lý tưởng đó làm nền tảng cho đường lối chung của quốc gia đương
thời. Nhà vua đã vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh, và đã tìm thấy một cuộc chiến
thắng thực sự.
Cuộc chiến tranh của chúng ta
ngày nay còn khủng khiếp và tàn phá gấp ngàn lần hơn cuộc chiến Kalinga của
vua A Dục thời xưa. Hiện nay con người đang đứng ở ngã tư đường lịch sử.
Bằng vào những khám phá và phát minh khoa học, con người tự hào nói rằng
trong mọi lãnh vực nó thể vượt qua những giới hạn của thiên nhiên. Con người
đã đạt được nhiều tiện nghi vật chất, nhưng trớ trêu là cùng lúc, cũng chính
những khả năng đó, đã khiến con người tiến gần đến sự hũy diệt hoàn toàn. Do
đó mà ngày nay chúng ta thấy trên thế giới đã xảy ra không biết bao nhiêu
cuộc chiến tranh và xung đột.
Không thể dùng bạo lực để chấm
dứt bạo lực cũng như không thể dập tắt đám cháy bằng cách đổ thêm dầu vào
lửa. Chỉ khi nào con người biết thực hành theo những lời Phật dạy trên,
chừng đó thế giới mới hết chiến tranh và nhân loại mới hưởng được hạnh phúc
hòa bình. Chắc chắn chúng ta phải chấp nhận lý tưởng đó, mặc dù chúng ta
không thể hoàn toàn hành động đúng theo nó trong hoàn cảnh hiện hữu của đất
nước chúng ta. Với tất cả nhiệt thành, chúng ta phải cần sống theo những
giới điều Phật dạy, lấy chúng làm châm ngôn chung cho chủ trương quốc gia và
quốc tế chúng ta.
Ước vọng duy nhất của chúng ta
là mong ngày ấy chóng đến để chúng ta có thể làm sống lại tinh thần đạo đức
cao siêu mà vua A Dục xưa kia đã thể hiện sau trận chiến thắng Kalinga. Ðể
chúng ta có thể tiếp nối được sự nghiệp vĩ đại ấy, tôi nghĩ bổn phận của các
dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngày nay là cần phải chấp nhận lý
tưởng đó để làm nền tảng cho chủ trương quốc gia của họ.
Tôi thiết tha hy vọng và nguyện
cầu cho những cố gắng của mọi quốc gia trong việc tán đồng chương trình hủy
diệt khí cụ chiến tranh sẽ có kết quả thực sự. Ðến lúc ấy, chúng ta có thể
nói rằng thế giới không thể nào không chú ý đến bức thông điệp của đức Phật
và lý tưởng của vua A Dục mà hiện thời chúng ta đang nỗ lực theo đuổi là
tuyệt đối không dùng bạo lực. Mặc dù ngày nay lý tưởng này xem khó bề thực
hiện, nhưng tôi tin chắc rằng ngày đó có thể đến, khi mà sự tận diệt đe dọa
bởi chiến tranh buộc nhân loại sẽ phải chấp nhận lý tưởng ấy. Trong thời đại
nguyên tử này, con người phải quyết định dứt khoát rằng nó sẽ chiến đấu với
bạo lực bằng bạo lực hoặc bằng tình thương.
Ðã có một tia sáng hy vọng hiện
rõ ở chân trời. Nhiều quốc gia đang hướng về thực hành theo ngũ giới của đức
Phật, và một vài dân tộc đã hoàn toàn chấp nhận những lời răn dạy ấy. Nhiều
lãnh tụ có uy quyền, mặc dù hiện nay họ chưa dự trù việc hũy diệt toàn bộ
các dụng cụ chiến tranh, nhưng ít ra, họ cũng đã nghĩ đến vấn đề hạn chế bớt
việc sản xuất những khí giới giết người ấy. Phải chăng một ngày mai huy
hoàng sẽ hiện đến khi mà các lãnh tụ trên thực hiện được lý tưởng này, để
mọi quốc gia có dịp sử dụng năng lực và tài nguyên của họ, không phải cho
mục đích chiến tranh phá hoại, mà vì lợi ích của hạnh phúc và hòa bình.

(Trích dịch
tạp chí The Maha Bodhi,Vol. 64.
No. 7,
ấn hành tại Ấn Ðộ).
Chú thích
của dịch giả:
(1) Takshashila
hay Taxila; ngày nay thuộc
thị trấn Rawalpindi ở Hồi Quốc (Pakistan). Xưa kia, Taxila là thủ đô xứ
Gandhara (Càng Đà La), một trong 16 tiểu quốc của miền bắc Ấn Ðộ thời cổ
(năm 600 trước Tây Lịch). Vào lúc đó, đại học Taxila (Takshashila) là một
trung tâm giáo dục nổi tiếng khắp Ấn Ðộ, nơi mọi người từ vua quan đến dân
thường, ước mong được đến học. Hầu hết các nhà học giả của Ấn Ðộ thưở xưa
đều xuất thân từ đại học này; trong đó có cả vua Prasenajit (Ba Tư Nặc),
nước Kosala ( Kiều Tát La), đồng thời với đức Phật ; và hoàng tử Jivaka, con
vua Bimbisara (Tần Bà Xa La): 546- 494 trước T.L.
Theo hai giáo sư sử học Ấn Ðộ, V.D.
Mahajan và M.L.Bhagi, thì khó xác định rõ thời kỳ nào đại học Taxila được
xây cất, chỉ biết trong thời hậu đại Phệ Ðà (Later Vedic Period), khoảng năm
1200-600 trước T.L (theo vài học giả khác: 900-600 trước T.L), là giai đoạn
huy hoàng lừng danh nhứt của đại học này. Và trường đã bị tàn phá hoàn toàn
trước khi Ngài Pháp Hiển (Fa-Hien), danh tăng Trung Hoa, đến viếng nơi này
vào thế kỷ thế thứ 5 sau Tây Lịch.
Chương trình giáo dục tại đại học
Taxila, vào lúc ấy, gồm nhiều môn học, đặc biệt nổi tiếng về y học, luật học,
võ thuật v.v…Trường không tổ chức theo hệ thống đại học như bây giờ, không
có những giảng đường hay phòng học to lớn. Mỗi giáo sư vào lúc dạy, chỉ nhận
hướng dẫn độ 20 sinh viên. Ngoại trừ các học sinh con nhà giàu, còn hầu hết
những sinh viên nghèo, không có tiền trả học phí cho thầy thì họ chỉ học về
đêm, ban ngày phải lo làm việc để hầu hạ các giáo sư. Về quỷ tài trợ, trường
nhận sự giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâm và giàu có đương thời.
(2) Vikramasila:
Ngày nay ở thành phố Patharghata, trong quận Bhagalpur, tiểu bang Bihar,
miền đông Ấn Ðộ, là một trong những đại học Phật Giáo danh tiếng thời xưa ;
do vua Phật tử Dharmapala (770-810) triều đại PaLa (750-1150) kiến lập. Ðại
học gồm có khoảng 108 ngôi chùa và sáu học viện với sáu cổng trường to lớn.
Nơi mỗi cổng ra vào được canh gác bởi một nhân viên của trường gọi là “học
giả gác cổng” (Gatekeeper Scholar). Theo sử sách Tây Tạng, viện trưởng của
trường vào những năm 1034-1038 là Ngài Dipankara Srijnana ( 980- 1053), một
học giả trứ danh người Ấn, được vua Tây Tạng mời sang thăm để hướng dẫn
phong trào phục hưng Phật Giáo và về sau Ngài đã xây dựng Phật Giáo thành
quốc giáo tại sứ này.
Trường có 53 phòng dành làm nơi tu
học Mật Giáo và 54 phòng cho chư Tăng sử dụng công cộng. Ngoài giáo pháp Mật
Tông là bộ môn đại học này đặc biệt giảng truyền, trường còn dạy các môn
khác như văn pháp (grammar), triết học, luận lý học v.v…. Cấp bằng cao nhất
trường cấp phát bấy giờ là văn bằng Pandita (học giả), tương đương với Cao
học (Master of Arts) ngày nay. Phần lớn các học giả Tây Tạng thời đó, đã
sống và tu học tại đại học này. Ngoài việc nghiên cứu kinh tạng Bát Nhã và
Mật Giáo, trường còn giúp họ trong việc phiên dịch nhiều kinh sách Phật Giáo
Phạn ngữ (Sanskrit) ra tiếng Tây Tạng.
(3) Nalanda:
Một thị trấn danh tiếng của vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) thời xưa ở Ấn Ðộ,
nơi đức Phật thường lui tới khi Ngài còn tại thế ở thành Vương Xá (Rajagriha).
Nalanda ngày nay thuộc quận Patna, tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Ðộ. Vào thế
kỷ thứ 02 sau tây lịch, Nalanda là một trung tâm học vấn Phật Giáo, và từ
thế kỷ thứ 05 đến thế kỷ 11 Nalanda trở thành một đại học Phật Giáo nổi
tiếng khắp Ấn Ðộ. Ngài Huyền Trang (Hiuen Tsang), danh tăng Trung Hoa, trong
thời gian đến Ấn Độ từ năm 630- 643, đã ở nghiên cứu, tu học tại đây hơn 5
năm. Ngài cho biết lúc đó, trường có khoảng 1,500 giáo sư, và số sinh viên
theo học lên tới 10,000 người.
(4) Asoka (A Dục Vương): Một
vị vua Phật tử nhiệt thành, có công đức “hộ pháp” nhiều nhất đối với nhân
loại, trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật. A Dục đại đế là
cháu nội vua Chandragupta (trị vì: 322-298 trước T.L.), người sáng lập nên
triều đại Maurya vào những năm (322-184 trước T.L.) ở Ấn Ðộ. A Dục là con
vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị vì vương quốc Ma Kiệt Ðà
(Magadha) vào những năm 298-273 trước T.L, với kinh đô đóng tại Pataliputra
(Hoa Thị Thành), nay là thị trấn Patna, thuộc tiểu bang Bihar miền đông Ấn
Ðộ. Sử chép rằng, vua Bindusara lấy 16 vợ và có đến 101 người con; trong đó
Sumana là con đầu, Asoka (A Dục) thứ hai, và Tishya là con út. Sau khi nghe
tin vua cha băng hà, A Dục bấy giờ đang cai trị tiểu quốc Avanti (miền bắc
Ấn Ðộ), cấp tốc kéo quân về vây hảm kinh thành Pataliputra, giết 99 người
anh của mình, trong đó có hoàng tử Sumana là người mà vua cha Bindusara định
truyền ngôi cho.
Bấy giờ, A Dục Vương nổi danh như
một hung thần bạo chúa, cai trị muôn dân bằng sắt máu. Ông dùng vũ lực xua
quân đi xâm lăng các tiểu quốc lân bang để mở mang bờ cỏi. Quân của nhà vua
đi tới đâu, cảnh lương dân bị chém giết, đầy ải; nhà cửa bị đốt cháy xảy ra
đến đó. Sau này, nhờ sự hướng dẫn của Ðại Đức Nigrodha, nhất là sau trận
chiến Kalinga, vua A Dục đã ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xâm lược chiến
tranh. Từ đó, nhà vua quyết tâm theo đuổi con đường tích cực ủng hộ, truyền
bá giáo pháp của đức Phật; không những trong nước Ấn Ðộ, và các quốc gia Á
Châu, mà con lan rộng cả đến Ấu và Phi Châu. Vua A Dục lên ngôi lúc Ngài 30
tuổi, và mất năm 71 tuổi: 273-232 trước T.L.
(5) Guptas:
Triều đại Guptas, do vua Chandra Gupta I sáng lập, trị vì Ấn Ðộ hơn hai thế
kỷ, khoảng từ năm 320 đến 550. Dưới triều đại này, nghệ thuật Phật Giáo, đặc
biệt ngành tạc tượng Phật trên đá, đã tiến đến một trình độ rất cao. Nhiều
chùa, tháp Phật Giáo, tượng Phật bằng đá với nét điêu khắc, chạm trổ tinh vi
nổi tiếng, còn lưu lại đến ngày nay khắp Ấn Ðộ đều được xây cất, làm ra dưới
triều đại Guptas này.
(6 Ajanta):
Tên một ngọn đồi hình móng ngựa (horseshoe form), ở gần làng Fardapur, trong
quận Aurangabad, thuộc tiểu bang Maharashtra, miền tây Ấn Ðộ. Trên sườn ngọn
đồi này, trong khoảng từ thế kỷ thứ 02 trước T.L đến thế kỷ thứ 07 sau T.L,
những người Ấn thời xưa đã đục trong đá thành những cái hang (caves) tạo nên
các ngôi chùa Phật Giáo với nghệ thuật kiến trúc, chạm trổ rất đẹp. Trong
các chùa hang đá này, những họa sĩ Phật tử vô danh Ấn Ðộ thời cổ đã sáng tác
nên những bích họa (tranh vẽ trên tường), rút đề tài ở lịch sử đức Phật, có
tất cả là 29 hang. Những hang này do một nhóm người Âu Châu đi săn tình cờ
khám phá ra vào năm 1829, và hiện nay vẫn còn, và là một trung tâm du lịch
nổi tiếng tại Ấn Ðộ.
(7) Kalinga:
Một tiểu quốc và bộ tộc ở vùng biển vịnh Bengal (Bay of Benga) vào thời vua
A Dục (273- 232 trước T.L). Ngày nay, Kalinga thuộc làng Dhauli, trong quận
Puri, tiểu bang Orissa, miền đông Ấn Ðộ. Sử chép rằng, sau cuộc chiến xâm
lăng Kalinga, với 100,000 người chết, và 150,000 tù binh bị bắt đầy ải, vua
A Dục (Asoka) nhất tâm quy y Tam Bảo, ngày đêm sám hối những tội ác của mình
đã gây ra cho dân tộc Kalinga; và phát nguyện đem hết năng lực còn lại của
đời mình để phụng sự Phật Giáo và nhân loại.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. 2500 Years of Buddhism, Editor:
Prof. P.V. Bapat, Publications Division, Government of India, Delhi, 1964.
2. Encycloaedia of Buddhism, Vol.
II, Edited by Dr. G. P.Malalasekera, Government of Ceylon (Sri Lanka),
Colombo, 1967.
3. A Guide to Taxila by John
Marshall, Indological Book House, Varanasi (India), 1972.
4. The Buddhist Pilgrimage by Duncan
Forbes, Motilal Banarsidass Publishers, Delhi (India) 1999.
5. Ancient Geogeaphy of India
(Buddhist Period), by A. Cunningham, Indological Book House, Delhi
(India), 1979.
6. History of Buddhism in India by
Taranatha (Translated from the Tibetan by Lama Chimpa, K.P.Bagchi & Company,
Calcutta (India) 1980).
|