Viết Thêm Cho Người Xuất Gia Trẻ
HT. THÍCH NHẤT HẠNH
Này
người xuất gia trẻ, các em hãy lắng nghe tôi nói đây. Tôi biết có những
người xuất gia trẻ hiện đang được sống trong một môi trường tu học thích
ứng, được thầy thương yêu và tin cậy, được anh chị em đồng tu khuyến khích
và nâng đỡ, được có cơ hội học hỏi và thực tập hàng ngày. Tuy nhiên số lượng
những người may mắn ấy còn rất hiếm. Có thể đọc đến dòng chữ này em đang
khóc. Tôi biết có rất nhiều học Tăng trẻ đang gặp nhiều khó khăn, kể cả
những khó khăn về cơm áo. Tôi đã đi ngang qua những chặng đường như thế rồi,
nên tôi hiểu họ.
NHỮNG KHÓ KHĂN
Xuất gia, sống trong chùa hay
trong học viện, chúng ta cũng có thể có những khó khăn như sống trong gia
đình. Nếu trong đời sống gia đình, ta có thể có vấn đề với cha mẹ hay anh
chị em, thì sống trong chùa cũng thế. Em có thể đang có khó khăn với thầy
em, và hai thầy trò đang khổ. Có thể em đang có cảm giác thầy em không
thương em, không hiểu em, và có thể thầy em cũng đang nghĩ là em không có đủ
tinh thần trách nhiệm, không chịu nghe lời thầy. Việc truyền thông giữa hai
thầy trò đã trở nên khó khăn, và cả hai thầy trò đang không có hạnh phúc. Em
nghĩ là đời sống ở chùa bận rộn quá, em phải làm nhiều việc quá, em không có
thời giờ để học hỏi và tu tập, mà chính thầy em cũng không có thời giờ để
học hỏi và tu tập. Em rất muốn được thầy em gửi em vào nội trú tại một học
viện Phật học để em có thể để hết thì giờ vào việc tu học, nhưng vì chùa neo
người, thầy em chưa cho em đi. Các vị thân sinh ra em có thể đã không muốn
em đi tu. Họ nói gia đình đang cần em chống đỡ mà em lại bỏ đi tu. Các vị
nghĩ rằng đi tu là bỏ bê gia đình, và em rất lấy làm khổ tâm. Người khác đi
xuất gia thì được gia đình yểm trợ tinh thần, còn em thì không. Em có thể
đang có vấn đề với sư anh, sư chị hay sư em của em. Em trách họ không hiểu
em, nặng lời với em, kỳ thị em, mách những khuyết điểm của em với thầy để
thầy không thương em... Những vấn đề như thế có bản chất giống hệt như những
vấn đề ngoài đời. Em khổ. Và sự kiện em đang khổ là một thua thiệt lớn cho
em, cho tôi, cho tất cả Tăng thân. Em khổ mà không chuyển hóa được cái khổ
của em thì làm sao em đi trọn con đường tu học?
Có khi em bực mình nghĩ rằng
hay là em nên ly khai Tăng thân, ra lập một cái am nhỏ, kiếm vài người bổn
đạo yểm trợ tài chánh cho em, dù để trả tiền nhà, tiền ăn và tiền đi xe
buýt, để em có thể đi học. Em tự bảo: học Phật pháp và sinh hoạt với Tăng
đoàn là chuyện ta sẽ làm suốt đời, cần gì phải gấp gáp; bây giờ mình hãy lo
học để đạt tới một trình độ văn hóa khá cao của thế học đã, rồi nghiên cứu
Phật học sau cũng không muộn. Hơn nữa nếu có một cái bằng cấp tốt nghiệp đại
học thì không những học Phật mau thành mà nói gì người ta cũng tin, tại vì
mình đã đậu cử nhân, phó tiến sĩ hay tiến sĩ... Những tư tưởng như vậy làm
em bất an, không an trú được trong nếp sống thường nhật. Những tư tưởng ấy
lại rất tai hại, bởi vì chúng đang có thể kéo em ra khỏi con đường tu mà em
không biết.
CON ĐƯỜNG THOÁT
Nếu em đang ở vào một hoàn
cảnh có nhiều khó khăn, tôi muốn em đừng vội ly khai môi trường hiện tại, bỏ
thầy bỏ chùa bỏ chúng mà đi nơi khác. Đừng đi vào dấu chân của những người
đứng núi này trông núi nọ. Có thể em đang mơ ước được vào nội trú viện Phật
học, nhưng cũng có thể một người khác đang nội trú trong viện Phật học lại
mơ ước được ra ở chùa ngoài như em. Nếu em chưa tìm ra một giải pháp thỏa
đáng thích hợp với những điều tôi cần căn dặn trong bài pháp thoại ngày
2-5-1996 thì em phải tìm tới tham vấn một vị thiện tri thức mà em tin cậy.
Vị thiện tri thức này có thể là một thầy hay một sư cô có tuệ giác, có đức
độ, có an lạc. Em hãy trình bày lên vị ấy tất cả những nỗi lòng và những sự
thực về hoàn cảnh của em. Vị ấy sẽ chỉ cho em đường đi nước bước em cần phải
theo. Nếu tôi được em tham vấn, tôi sẽ nói rằng em cần thực tập để thiết lập
ngay lại sự truyền thông với thầy em và với huynh đệ em càng sớm càng tốt,
em phải học hạnh đế thính (lắng nghe) và ái ngữ (ngôn từ hòa ái). Phải biết
ngồi nghe một cách chăm chú, tĩnh lặng, phải học nghe với tâm không thành
kiến, đừng tỏ vẻ nóng nảy, đừng có khuynh hướng phán xét và phản ứng; những
năng lượng này một khi biểu hiện ra nét mặt, đôi mắt, hơi thở hay ra cử chỉ
sẽ làm cho người nói không còn cảm hứng nói ra những điều người ấy muốn nói.
Phải tập theo dõi hơi thở để giữ sự bình tĩnh trong lúc nghe, để tiếp thu
những điều mình nghe, dù những điều đang nghe không phù hợp với nhận thức
sẵn có của em về sự thật. Em phải tập nghe thầy và nghe huynh đệ em theo
cách ấy, và khoảng một tháng sau, sự truyền thông (communication) sẽ được
tái lập giữa em và những người ấy. Và khi em nói, em phải tập nói với ngôn
từ hòa ái. Phải nói như thế nào để chứng tỏ mình đang bình tĩnh trình bày
cho người kia thấy sự thật chứ không phải là mình đang nói để lộ sự bực dọc
hay bất bình của mình. Tuyệt đối không trách móc. Em chỉ nói về những khó
khăn những đau khổ của em thôi, và cầu xin sự giúp đỡ của người kia. Đế
thính và ái ngữ là nội dung của giới thứ tư trong năm giới quý báu. Thực tập
giới này em sẽ chuyển đổi được tình trạng và em có thể thuyết phục thầy và
huynh đệ của em cùng góp sức chuyển hóa môi trường hiện thời thành một môi
trường thích hợp hơn cho sự tu học, nghĩa là cho sự thực hiện lý tưởng cao
đẹp của người xuất gia hảo tâm. Trong một viện Phật học, có thể cũng có
những hiện tượng chống báng, phe phái, chia rẽ và kỳ thị. Nếu em là Tăng
sinh trong viện Phật học, hoặc giả nếu em là một vị giáo thọ trẻ trong viện
Phật học, em cũng phải thực tập như thế để dần dần chuyển hóa viện Phật học
thành một môi trường thực sự thuận lợi cho sự thực hiện lý tưởng của người
xuất gia. Tôi biết những lời tôi đang viết đây cũng sẽ được các vị sư trưởng
của các chùa và các vị giáo thọ trong các viện Phật học đọc, và tôi tin chắc
quý vị cũng đang thao thức như tôi và như em trong vấn đề chuyển hóa môi
trường tu học cho môi trường ấy trở thành thuận lợi, và như thế mọi người
trong ban giám hiệu, ban giáo thọ, cũng như tất cả các Tăng sinh sẽ có hạnh
phúc nhiều hơn trong đời sống tu học hàng ngày. Hạnh phúc của em rất cần
thiết cho tôi và cho tất cả mọi người, vì vậy em không có quyền tiếp tục đau
khổ. Nếu em tiếp tục đau khổ, chúng tôi sẽ mất em. Đau khổ cần thiết cho tuệ
giác nếu ta biết quán chiếu nó, nhìn sâu vào bản chất nó, để tìm lối ra. Vì
vậy đau khổ là một thánh đế, nghĩa là một sự thật linh thiêng. Nhưng nếu ta
tự để đắm chìm trong khổ đau mà không thấy được bản chất và con đường thoát
khổ, thì đau khổ không còn là một thánh đế nữa.
ĂN CƠM CÓ CANH
Nhà sử học Anh, Arnold Toynbee
có tiên đoán rằng sự gặp gỡ giữa đạo Bụt và văn minh phương Tây sẽ là một
biến cố quan trọng nhất của thế kỷ tới. Tôi tin rằng từ cuộc gặp gỡ đó, một
nền văn hóa mới cho nhân loại sẽ được khai sáng. Em phải chuẩn bị để đóng
góp phần em vào biến chuyển lịch sử. Em phải áp dụng cho được giáo pháp của
Đức Thế Tôn trong đời sống hàng ngày để chuyển hóa khổ đau của em và của
Tăng thân em. Tăng thân là đoàn thể tu học của mình, gồm có thầy và các sư
anh, sư chị, sư em của mình. Tăng thân cũng là một thứ thân thể của mình.
Nếu mỗi người đều có Phật thân và Pháp thân của mình thì đoàn thể tu học của
mình cũng tức là Tăng thân của mình. Phải hết lòng thực tập hơi thở và bước
chân chánh niệm. Phải sống cho sâu sắc mỗi giây phút của đời sống hàng ngày.
Phải biết tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong em và chung quanh
em trong từng giây từng phút. Phải tỉnh thức lại, phải thấy được trúc tím,
hoa vàng, trăng trong và mây trắng là biểu hiện của Pháp thân mầu nhiệm.
Phải sống cho được giáo lý hiện pháp lạc trú như thầy Tam Di Đề (Sammidhi),
một vị xuất gia trẻ hồi thời của Bụt, rất được Bụt và Tăng đoàn thương mến.
Thầy La Hầu La (Rahula) là người trẻ đầu tiên được gia nhập vào giáo đoàn
xuất gia, và đã được thầy Xá Lợi Phất trao truyền mười giới Sa di. Thầy La
Hầu La sau này đã thành công như một trong mười vị đệ tử lớn của But. Thầy A
Nan (Ananda) cũng là một người xuất gia trẻ sống hạnh phúc đời sống xuất gia
với một trái tim thương yêu trinh nguyên. Nhờ thông minh và trí nhớ phi
thường của thầy mà biết bao nhiêu kinh điển của Bụt đã được lưu truyền lại.
Thầy Ly Bà Đa (Revata) em út của thầy Xá Lợi Phất vì thấy được lẽ vô thường
và biến hoại của mọi nhan sắc, nên đã xin đi xuất gia từ hồi còn niên thiếu.
Thầy sống rất thoải mái và hạnh phúc nơi những vùng núi rừng thanh tịnh.
Thầy Tu Bồ Đề (Subhuti) em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc cũng là người niên
thiếu xuất gia, được Bụt khen ngợi là thông suốt phép Từ quán và Bi quán. Cả
hai đều nhìn vào gương tu tập của người anh. Thầy Tu Na Ka (Sonaka) phát tâm
Bồ đề ngay sau khi được nghe bài thuyết pháp ở tu viện Trúc Lâm, đã phải
nhịn ăn nhiều tuần lễ, thân thể ốm mòn, mới được phép cha mẹ cho đi xuất
gia. Các thầy Bà Đề (Bhaddiya) và A Nậu Lâu Đà (Anurudha) đều là con trai
dòng quý tộc, đã bỏ quyền hành và giàu sang để xuất gia theo Bụt, sống đời
giải thoát. Sư cô Liên Hoa Sắc (Uppalavana) và Sư cô Thu Ba (Subha) đều là
những thiếu nữ nổi tiếng sắc nước hương trời nhưng đã cắt bỏ mọi ân ái buộc
ràng để trở nên người xuất gia, sống tu đạo với một quyết tâm ít ai bì kịp.
Sư cô Tôn Đà Lợi Nan Đà (Sundarinanda) em cùng cha khác mẹ của Bụt, cũng đã
đi xuất gia lúc chưa đầy hai mươi tuổi, và đã được Bụt khen là rất thành
công trong công phu thiền tập... Các vị đều là những tấm gương sáng cho em.
Chúng ta không tu một mình.
Chúng ta chỉ có thể tu với Tăng thân. Không sống, không tu học và làm việc
với Tăng thân thì ta sẽ yếu lắm. Sống và tu học với Tăng thân ta được Tăng
thân soi sáng và yểm trợ; đó thực sự là quy y Tăng. Quy y Tăng không phải
chỉ là một đức tin mà là một sự thực tập hàng ngày. Nếu không quay về nương
tựa Tăng, em sẽ đánh mất lý tưởng xuất gia đẹp đẽ của em trong một tương lai
rất gần. Người Việt chúng ta đã có kinh nghiệm sâu sắc về tuệ giác này, cho
nên chúng ta ai cũng biết câu "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn".
GIA TÀI CỦA BỤT
Là người xuất gia, là những
người con gần gũi nhất của Bụt, em phải biết thừa hưởng gia tài của Bụt.
Phải thực tập cho được những pháp môn căn bản để có hạnh phúc. Phải nắm vững
các pháp môn thiền tọa, thiền hành, quán niệm hơi thở, ăn cơm chánh niệm,
quán chiếu vô thường, quán chiếu vô ngã, quán Từ, quán Bi, nhận diện và
chuyển hóa khổ đau, xây dựng Tăng thân và làm hạnh phúc cho đời. Khi học
kinh, nên luôn luôn tự hỏi: những tư tưởng này của kinh có dính líu gì tới
đời sống hàng ngày của ta không, có giúp ta chuyển hóa khổ đau và tạo thành
an lạc không? Cố nhiên là các kinh lớn như Kim Cang, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm,
Bảo Tích... chứa đựng nhiều tư tưởng siêu việt, nhưng mục đích học kinh
không phải là để thưởng thức triết lý thâm uyên, lặp lại những tư tưởng ấy
và đi tìm sự thỏa thích trong khi giãi bày những tư tưởng ấy. Phật pháp là
chiếc bè đưa ta qua sông; em phải sử dụng được chiếc bè để qua tới bến bờ
của chuyển hóa và an lạc. Mục đích của người xuất gia không phải là để trở
thành một nhà Phật học hay nhà triết học, mà là trở thành một người an lạc,
giải thoát, một vị đạo sư đích thực có khả năng độ đời. Cho nên em phải
tránh con đường chất chứa kiến thức. Phải theo nguyên tắc thực học, thực tu,
thực chứng. Em phải thấy được vô thường, vô ngã, từ, bi... là những dụng cụ
quán chiếu để chuyển hóa khổ đau chứ không phải là những lý thuyết. Nếu em
biết cách quán chiếu vô thường, vô ngã, từ và bi, em sẽ phá được những nhận
thức sai lầm (vọng tưởng) của em trong đời sống hàng ngày, sẽ trở nên hiểu
biết và bao dung hơn, và tình thương trong em càng ngày càng lớn. Có tình
thương thì cuộc đời ta mới có hạnh phúc. Những người chỉ có trách móc và hận
thù trong tâm là những người đau khổ. Chừng nào em thấy chất liệu của Từ và
Bi lớn lên trong em, chừng nào em nhận thấy em đã bắt đầu biết nhìn người
khác bằng con mắt từ bi (từ nhãn thị chúng sinh) không còn khắt khe, không
còn oán trách, thì em biết lúc đó em đã bắt đầu có nhiều hạnh phúc. Đây là
một chuyển hóa lớn của người tu. Tôi đã từng đi trên 30 quốc gia trên thế
giới, tổ chức những khóa tu học cho người bản xứ. Có những khóa tu kéo dài
được ba tuần, nhưng cũng có những khóa tu rất ngắn, chỉ kéo dài có bốn hôm.
Ấy vậy mà có những thiền sinh và gia đình họ sau bốn ngày tu đã được chuyển
hóa và đã tìm lại được sự tha thứ, thương yêu và hài hòa trong lòng họ và
gia đình họ. Người xuất gia không nên quên rằng mình có cái may mắn là được
thường trú trong khung cảnh tu học: nếu để tháng ngày đi qua mà không hạ thủ
công phu thì uổng phí cuộc đời xuất gia của mình. Người nông phu sau khi thí
nghiệm một loại hạt giống, một loại phân bón hoặc một phương pháp canh tác
mới mà không thành công thì chắc chắn sẽ thay đổi hạt giống, phân bón hoặc
phương pháp canh tác ấy. Chúng ta cũng vậy, nếu tu tập từ ba tới sáu tháng
mà không thấy hoặc chưa thấy có chuyển hóa gì, ta phải biết là có một cái gì
không đúng trong phương pháp tu học. Ta phải lập tức tìm thầy và bạn để tham
vấn, tìm ra những pháp môn thích hợp và hữu hiệu cho ta. Tôi thấy có những
người tu suốt mấy mươi năm mà nhận thức, cách sống và tập khí khổ đau vẫn
không thay đổi. Thật là uổng phí cho họ và cho chính ta.
BẠN ĐỒNG HÀNH CỦA BỒ TÁT
Thực tập Từ và Bi cho đúng
phép, một ngày nào đó em sẽ thấy năng lượng từ bi trong em đòi em phải thể
hiện qua hành động. Từ và Bi không phải là những nguyên tắc sống, đó là
những năng lượng đòi hỏi được biểu hiện cụ thể bằng sự sống. Có thể em là
một người xuất gia muốn biểu lộ từ bi qua công tác cứu trợ người nghèo đói,
chăm sóc cô nhi, người khuyết tật, hoặc phục vụ tại các nhà thương và nhà
tù. Những công tác này là những bài thuyết pháp đích thực, nếu quả thực công
tác của em được thúc đẩy bởi động lực thương yêu. Mỗi cử chỉ săn sóc người
ốm đau, người tàn tật hay người nghèo khó có thể là một lời pháp ngữ hùng
hồn. Dù vị pháp sư thuyết pháp hay nhưng nếu những lời vị ấy nói ra không
phải là do năng lượng từ bi thúc đẩy thì bài pháp cũng chỉ là một công tác
danh lợi, không phải là một bài thuyết pháp đích thực. Tôi không muốn sư cô
và sư chú mải mê làm công tác xã hội mà quên mất mục đích thực sự của người
xuất gia là tu tập để diệt trừ phiền não, chuyển hóa khổ đau. Em không nên
để hết thì giờ vào việc xã hội. Phận sự của em không phải là bác sĩ, y tá
hay cán sự xã hội. Em có thể phát nguyện làm việc mỗi tuần vài ba buổi tại
các bệnh viện, trại giam hoặc nhà cô nhi, nhưng trong khi làm việc em phải
làm cho thật có chánh niệm, luôn luôn trầm tĩnh, có đủ phong độ, uy nghi và
không bao giờ đánh mất mình trong thất niệm. Nếu em biết theo dõi hơi thở và
thực tập an trú trong giây phút hiện tại thì công tác giúp người của em cũng
đồng thời là công phu tu tập, cũng quan trọng như thực tập ngồi thiền hoặc
tụng kinh.
Tại các nước phát triển ở châu
Âu và Bắc châu Mỹ, rất nhiều bệnh viện có thánh đường và thiền đường để cho
bệnh nhân và những người thân của họ thực tập.
Có những giây phút bệnh nhân
hoặc thân nhân của họ cần phải tĩnh tâm để cầu nguyện, như những lúc trước
giờ giải phẫu, những lúc giải phẫu hay cấp cứu, những lúc chờ đợi hồi
sinh... Thánh đường, niệm Phật đường hay thiền đường vì vậy rất cần thiết.
Có những người xuất gia nguyện phục vụ trong ấy. Họ phải được học hỏi cách
thức để có thể giúp người bệnh và thân nhân của họ đạt tới sự an tâm. Trong
các nhà giam cũng vậy. Có những người tu được đào tạo để có thể phục vụ
những người đang bị giam giữ. Căn bản tâm lý học và phương pháp an ủi và
giải tỏa tâm lý rất cần thiết. Vào những nơi này để phục vụ, em sẽ có cảm
tưởng là Bồ tát Địa Tạng cũng cùng đang đi bên em để đem lại sự bình yên cho
tâm hồn những người trong ấy. Em phải làm công tác với tất cả trái tim em,
vì em đang là một vị Bồ tát bạn đồng hành của Bồ tát Địa Tạng. Mà đã là Bồ
tát thì giây phút nào cũng tập luyện tỉnh thức, đừng để công việc kéo đi,
lọt vào thế giới của thất niệm. Chúng ta nói chúng ta thực tập từ bi mà nếu
chúng ta không có mặt tại những nơi có khổ đau như nhà thương và trại giam
thì đó là một điều khó hiểu. Tại nhiều nước phương Tây như Anh và Mỹ, sách
của tôi viết được gửi vào các trại giam nhiều lắm, thỉnh thoảng những thành
phần của chúng chủ trì dòng tu Tiếp Hiện cũng vào thăm viếng các tù nhân để
ủy lạo và hướng dẫn thiền tập cho họ. Tôi đã nhận được rất nhiều thư cảm ơn
của các độc giả trong tù. Nhiều vị nói trong tù họ thực tập tinh chuyên lắm,
và tin tưởng nơi những phương pháp thực tập ấy, vì tâm hồn họ được an tĩnh
và niềm tin của họ được hồi sinh. Các vị lãnh đạo Giáo hội, các bậc sư
trưởng của em thế nào cũng phải can thiệp với các cấp chính quyền để tại mỗi
bệnh viện và nhà giam sẽ được thiết lập một thiền đường, và can thiệp với
các viện Phật học để chuẩn bị huấn luyện một số Tăng sinh sau này có thể
phục vụ tại những nơi như thế.
PHẨM VẬT HIẾN TẶNG
Hiến tặng là hành động cao đẹp
nhất của người tu. Phẩm vật hiến tặng có ba thứ: tài vật, pháp môn tu học và
sự an vững của tâm hồn (tài thí, pháp thí và vô úy thí). Người xuất gia đâu
có tài vật gì nhiều để hiến tặng. Chính nhờ đức độ và tình thương của ta mà
thiên hạ đã tin cẩn và giao phó cho ta một ít tài vật của họ để làm công
việc cứu trợ và ủy lạo. Pháp môn tu học mà ta đã từng thực tập và gặt hái
kết quả là tặng phẩm rất quý của ta. Vì vậy nếu em có làm công tác xã hội
thì đừng làm công tác xã hội suông, nghĩa là chỉ đóng vai trò của một tác
viên xã hội. Vai trò của em là nhà tu. Vậy trong khi làm việc cứu tế em hãy
tìm cách trao truyền cho người kia những phương pháp thực tập giúp họ vượt
thoát khổ đau của họ. Em đừng nghĩ họ chỉ khổ đau vì thiếu cơm, thiếu áo,
thiếu nhà ở, thiếu thuốc men. Họ đau khổ nhiều trong liên hệ giữa họ và
những người quanh họ, họ đau khổ vì giận hờn, thất vọng mặc cảm, ganh ghét,
xung đột v.v... Em đừng sợ bị mang tiếng là lợi dụng công tác xã hội để
truyền đạo. Em có thể dùng ngôn từ không tôn giáo để giúp họ tháo gỡ những
cái kẹt của họ. Phép thở, phép buông thư, phép lắng nghe, phép ái ngữ...
ngoài đời người ta cũng dạy, cũng đọc, trong các tôn giáo khác cũng vậy.
Pháp thí là bảo vật rất quý của người tu, đem hiến tặng hoài mà không bao
giờ hao hụt. Vô úy thí là tặng phẩm thứ ba, đó là sự vững chãi, sự thảnh
thơi và tuệ giác của em. Nếu em tu tập thành công thì càng ngày em càng vững
chãi, càng ngày em càng có tự do nhiều hơn. Tự do ở đây là tự do tâm linh.
Em không bị sai sử và ràng buộc bởi bất cứ một tâm hành bất thiện nào: sự lo
lắng, sự sợ hãi, sự hận thù, sự thèm khát, sự ganh ghét... Quán chiếu về vô
sinh, em không còn sợ hãi, dù là cái chết. Ngồi bên giường người hấp hối, sự
vững chãi và thảnh thơi của em giúp cho người đang hấp hối an tâm trở lại và
thực tập chánh niệm cho đến giờ phút qua đời. Sự có mặt của em gây niềm tự
tin và sự không sợ hãi. Đó là tại vì em có chất liệu vô úy, vững chãi và
thảnh thơi nơi em. Tôi có những người học trò rất giỏi về việc thực tập nâng
đỡ người hấp hối. Ví dụ như giáo thọ Chân Tiếp. Chị Chân Tiếp (Joan Halifax)
là một nhà nhân chủng học nổi tiếng của Hoa Kỳ, nghiên cứu về văn minh người
da đỏ. Chị là thành viên chúng chủ trì dòng tu Tiếp Hiện. Chị đã huấn luyện
cho nhiều người trong việc hướng dẫn những người hấp hối. Các vị đều là
những người có khả năng hiến tặng vô úy. Ta phải có khả năng hiến tặng vô úy
cho người đời, trong những khúc quanh khó khăn nhất của đời họ, và khi họ
hấp hối. Tôi có làm một bài hát lấy ý từ Tương Ưng Bộ với nhan đề là Ru
người hấp hối, một bài có thể đọc, tụng hay hát cho người hấp hối nghe, dù
người đó đang tỉnh hay đã mê.
Thảnh thơi, tự do, đó là bảo
vật quý giá nhất của người xuất gia, em đừng bao giờ đánh mất nó. Phải thực
tập chánh niệm và nghiêm trì giới luật em mới bảo vệ được tự do mình. Những
cám dỗ như danh vọng, quyền hành, sắc dục và tiền bạc chỉ là những con mồi
trong đó có móc một chiếc lưỡi câu sắc bén. Con cá tưởng con mồi là mồi thật
nên đớp lấy và bị lưỡi câu móc vào cổ họng.
Hạnh phúc của em không phải do
những tài, sắc, danh, lợi ấy đem tới. Vướng vào chúng, em sẽ mất tự do. Hạnh
phúc của em là chất liệu vững chãi, thảnh thơi, vô úy và tình thương. Mỗi
ngày em phải bồi đắp và phát triển những yếu tố đó trong em.
TAY TRONG TAY
Này người xuất gia trẻ, tôi đã
có thể nhận ra em từ lúc em còn chưa xuất gia. Nhìn em, tôi biết trong em có
hạt giống tốt của người xuất gia. Và tôi thường tâm tâm niệm niệm để em có
đủ nhân duyên đi xuất gia sớm. Em đã xuất gia rồi, tôi mừng biết mấy. Tôi
làm đủ những gì có thể làm để tạo điều kiện cho em được học, được tu, được
nuôi dưỡng chí hướng của em. Tôi xót xa khi thấy em buồn khổ. Tôi vui mừng
hạnh phúc khi thấy em hạnh phúc. Tôi hãnh diện khi thấy em độ được gia đình,
giúp thầy em xây dựng nên Tăng thân, và bắt đầu có thể tạo dựng hạnh phúc
cho người. Tôi lo lắng cho em, mong ước nuôi dưỡng được em như những chiếc
lá đầu của cây chuối nuôi dưỡng những cuộn lá kế tiếp nằm trong lòng cây
chuối. Em là niềm tin cậy của tôi. Em là con Bụt. Em là em tôi, là học trò
tôi, là con tôi, là cháu tôi. Cho dù em chưa sinh ra, tôi cũng đã nhìn thấy
em rồi. Mới thọ giới Sa di, Sa di ni hay đã thọ giới cụ túc, em là người
xuất gia trẻ mang theo em chí hướng của Bụt. Em là sự nối tiếp của Bụt, là
bảo bối của Pháp, là tinh hoa của Tăng. Là gái hay là trai, em cũng có thể
mang lý tưởng Bồ tát đi vào đời. Nói chuyện tâm sự được với em hôm nay, tôi
thấy lòng nhẹ nhõm. Tôi không bi quan, không lo lắng, bởi vì tôi có đức tin
nơi em. Tôi sẽ có mặt bên em mãi. Tay em trong tay tôi, tay tôi trong tay
Bụt, chúng ta hãy vững chãi đi về tương lai.
|