CÕI ÂM CÓ HAY KHÔNG ?
NHẬN THỨC CỦA PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NÀY NHƯ THẾ NÀO?
MINH
CHI
Phật
giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm
phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng
dân gian, hay là của Lão giáo, không phải Lão
giáo của cuốn Đạo Đức kinh mà là một thứ Lão
giáo dân gian hóa.
Nhưng
để cho vấn đề rất phức tạp này được trình bày có
hệ thống, thuận lợi cho quý vị, tôi xin phép
trình bày qua ba mục lớn như sau:
-
Thái độ của Phật giáo đối với vấn đề sống chết
và đối với các thái độ khác.
- Các
cõi sống khác nhau.
- Cõi
trung ấm của Phật giáo có phải là cõi âm hay
không.
1. Thái độ của
đạo Phật đối với vấn đề sống chết.
Đối
với vấn đề này, có thể có bốn thái độ và nhận
thức khác nhau:
a.
Thái độ của các nhà duy vật cổ cũng như hiện đại.
Chết rồi là hết, không còn gì nữa; mọi chuyện
xảy ra sau khi chết là chuyện tưởng tượng. Chủ
thuyết này có thể dẫn tới một thái độ coi thường
đạo đức, đề cao lối sống hưởng thụ, lối sống gấp.
b.
Chủ nghĩa hoài nghi, thể hiện trong câu nói của
Khổng Tử "Sống còn chưa biết thì biết chết làm
gì?" hay là câu của triết gia Hy Lạp cổ đại
Epicuya: "Khi tôi sống thì làm sao biết được
chết là gì. Khi tôi chết rồi, lại càng không thể
biết chết là gì".
c.
Quan niệm của một số tôn giáo thần quyền. Người
ta sống chết chỉ có một lần. Nếu sống tốt, theo
đúng lời dạy của Thượng đế thì chết rồi sẽ lên
thiên đàng cùng ở với Thượng đế. Nếu sống ác,
trái với lời dạy của Thượng đế thì sẽ chết rồi
xuống âm phủ ở với quỷ. Quan niệm như trên đối
với một số người, (tôi không nói là đối với tất
cả) dẫn tới một lối sống bức xúc, đầy mặc cảm,
không rõ mình sống như thế này đã hợp với ý của
Thượng đế hay chưa v.v...
d.
Quan niệm sống, chết chỉ là hai mắt xích trong
một chuỗi sinh tử dài vô tận, từ vô thủy cho đến
ngày giải thoát tối hậu, con người đạt tới cảnh
giới bất tử. Đây là quan niệm của đạo Phật và
một số đạo giáo và triết thuyết ở Ấn-Độ. Người
ta không phải sống và chết một lần. Có sống thì
có chết. Chết là điều không tránh khỏi. Nhưng
chết rồi lại sống một đời khác, và cứ như vậy
luân hồi mãi cho tới ngày giải thoát tối hậu. Sự
sống là bất diệt, nhưng nó mang nhiều dạng sống
khác nhau ở các cõi sống khác nhau. Động lực của
sự sống là nghiệp (Karma). Nghiệp thường được
giải thích một cách đơn giản là hành động. Nhưng
Phật Thích Ca từng giải thích nghiệp là tác ý,
nghĩa là dụng tâm. Do đó, có thể giải thích
nghiệp là hành động có dụng tâm. Khi đã có dụng
tâm thì mọi lời nói hay hành động bắt nguồn từ
dụng tâm đều là nghiệp. Trái lại, mọi lời nói
hay hành động không có dụng tâm, đều không phải
là nghiệp, theo đúng ý nghĩa Phật giáo của từ
này. Có thể nói một cách khác, mọi hành động,
lời nói có dụng tâm hay là có ý thức đều là
nghiệp, và trở thành động lực góp phần tạo ra
con người chúng ta, cuộc sống chúng ta đời này
và đời sau. Nghiệp có tầm quan trọng như vậy đối
với con người và cuộc sống con người, cho nên
Phật, trong bài kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung
bộ kinh 3) đã định nghĩa:
"...Các
loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, thừa tự
của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến
thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các
loài hữu tình" (Trung bộ III. Kinh Tiểu nghiệp
phân biệt, tr 381).
Nội
dung câu Phật nói rất rõ. Người là chủ nhân của
nghiệp do mình tạo ra, người cũng nhận lãnh đủ
mọi quả báo do chính mình tạo ra đó không tách
rời mình, do đó mà Phật nói nghiệp là quyến
thuộc đích thực. Vì chết, không bà con quyến
thuộc nào dù thân thiết đến đâu cũng không thể
đi theo mình được, nhưng nghiệp vẫn đi theo mình,
quyết định hướng tái sanh của mình trong đời kế
tiếp: thân phận mình sẽ thế nào, làm người, làm
loài trời hay là súc sanh... và cảnh ngộ của
mình sẽ ra sao...Phật nói: nghiệp là điểm tựa. Ý
nói, cuộc sống chúng ta dựa vào nghiệp để tồn
tại như điểm tựa. Khi nghiệp lực nuôi dưỡng cuộc
sống đời này hết thì chúng ta sẽ chết, cũng như
cái đèn cạn dầu vậy. Cũng có sách Phật ví nghiệp
như cái trục của bánh xe. Cuộc sống của chúng ta
xoay xung quanh nghiệp như là cái bánh xe xoay
quanh cái trục của nó vậy. Trong ba nghiệp: ý
nghiệp, khẩu nghiệp và thân nghiệp; thì quan
trọng nhất là ý nghiệp, tức là nghiệp do ý nghĩ
có dụng tâm tạo ra. Chính cái ý nghĩ có dụng tâm
này là cốt lõi, là thực chất của khẩu nghiệp,
tức là nghiệp bằng lời nói, và thân nghiệp là
nghiệp bằng hành động nơi thân. Kinh Pháp Cú mở
đầu bằng các câu kệ:
* Bài
kệ I ?
"Ý
dẫn đầu các pháp,
Ý làm
chủ ý tạo,
Nếu
với ý ô nhiễm,
Nói
lên hay hành động,
Khổ
não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo"
(Kinh
Pháp Cú, bản dịch Thích Minh Châu, tr 11)
Ý tứ
bài kệ trên rất rõ ràng:
Tâm ý
trong con người là cái làm chủ. Nếu tâm ý là ác,
bất thiện, dơ bẩn thì lời nói hay hành động cũng
bất thiện, ác, dơ bẩn; và con người sẽ bị đau
khổ tức thì, cũng như bánh xe lăn theo chân con
bò kéo xe vậy.
Chính
vì vậy mà người Phật tử thâm hiểu thuyết nghiệp
hết sức chú ý tu tập tâm, khiến cho tâm mình
ngày càng trở nên trong sáng, hoàn toàn thiện
lành. Cũng kinh Pháp Cú dạy rằng, kẻ thù hại
mình cũng không bằng cái tâm nghĩ bậy làm hại
mình. Cha mẹ, bà con làm tốt cho mình, không
bằng cái tâm nghĩ thiện đem lại lợi ích cho mình.
"Kẻ
thù hại kẻ thù,
Oan
gia hại oan gia,
Không
bằng tâm hướng tà,
Gây
ác cho tự thân".
* Bài
kệ 43:
Điều
mẹ cha, bà con,
Không
có thể làm được,
Tâm
hướng chánh làm được,
làm
được còn tốt hơn"
Như
trên đã nói, thế giới vũ trụ này có muôn vàn sai
biệt là do nghiệp của chúng sanh có thiện có ác,
có lành có dữ, hay là thiện ác xen lẫn với những
mức độ khác nhau. Đạo Phật không có quan niệm
hẹp, trái đất là cõi duy nhất có sự sống; cũng
không xem loài người là tối linh trong muôn
loài, như đạo Khổng thường nói.
2. Các cõi sống
khác nhau, các dạng sống khác nhau.
Qua
các khái niệm tiểu thiên thế giới, trung thiên
thế giới, đại thiên thế giới, chúng ta biết đạo
Phật chưa từng bao giờ xem trái đất chúng ta như
là trung tâm của thế giới, của vũ trụ. Một tiểu
thế giới được xem như là một Thái dương hệ,
trong đó có trái đất. Một ngàn tiểu thế giới hợp
lại, tạo thành một tiểu thiên thế giới; một
nghìn tiểu thiên thế giới hợp lại thành một
trung thiên thế giới; và một nghìn trung thiên
thế giới hợp lại thành một đại thiên thế giới.
Trong sách Phật có khái niệm tam thiên đại thiên
thế giới, nhằm chỉ một quần thể ba nghìn đại
thiên thế giới, mà có học giả hiện đại ví với
những hệ tinh vân của thiên văn học hiện đại. Ở
đây, chúng ta không thể bàn đến độ chính xác của
các con số, nhưng điều đáng ghi nhận, ngay từ
hơn 500 năm trước TL, đạo Phật đã có một quan
niệm về không gian gần gũi với thiên văn học
hiện đại.
Trên
đây, đã nói về không gian. Bây giờ nói đến các
cõi sống. Như đã nói trên, đạo Phật không xem
cõi người là trung tâm điểm của thế giới, cũng
không xem người là loài vật tối linh. Nói chung,
đạo Phật chia các cõi sống ra làm ba cõi, tùy
theo trình độ tâm linh. Nói luân hồi trong ba
cõi, chính là nói luân hồi trong ba cõi đó. Ở
cõi trời cao cấp nhất, gọi là cõi Vô sắc; chúng
ta gặp những chúng sanh, thường xuyên ở trong
thiền định, không có sắc thân như thân thể riêng
biệt của chúng ta, mà chỉ sống cuộc sống tinh
thần thuần túy. Cõi Vô sắc chia ra bốn cấp có
trình độ cao thấp khác nhau.
Cõi
thứ hai gọi là Sắc giới. Chúng sanh ở đây có sắc
thân đẹp đẽ sáng chói, nhưng không có phân biệt
nam nữ, vì ở đây không còn có lòng dục, tức là
dâm dục.
Cõi
Sắc giới này cũng chia thành nhiều cấp, ở đây
không tiện bàn, vì không có thời gian.
Cõi
thứ ba thấp nhất chính là cõi của những chúng
sanh còn có lòng duc, tức dâm dục, cho nên có
phân biệt nam nữ. Cõi người chúng ta nằm trong
Dục giới. Cõi người không phải là cõi sống có
trình độ cao nhất trong Dục giới. Có 6 cõi trời
cũng nằm trong Dục giới, gọi là Lục dục thiên. Ở
đây chúng sanh có thọ mạng dài hơn thọ mạng của
loài người rất nhiều. Sách Phật đơn cử ví dụ của
cõi trời thấp nhất trong sáu cõi trời nói trên,
tức là cõi Bốn thiên vương, ở đây một ngày đêm
bằng 50 năm ở cõi người. Do thời gian khác nhau
giữa cõi trời và cõi người, cho nên tuy việc các
loài trời đến thăm cõi người là có khả năng,
nhưng thật là hãn hữu lắm họ mới đến. Thí dụ,
sách Phật có nói tới một loài trời có tên là
Quang âm thiên; khi trái đất mới thành hình và
đã có điều kiện cho sinh vật ở được, thì có loài
trời Quang âm thiên xuống đây. Thân hình họ chói
sáng. Họ bay chứ không đi như con người. Họ nói
chuyện giao tiếp nhau bằng ánh sáng, do đó mà có
từ Quang âm. Giống người trời này về sau ăn thức
ăn thô nặng, cho nên dần dần thân họ cũng trở
nên thô nặng, không còn bay được, không còn chói
sáng và dần dần chuyển thành thân người.
Nói
chung, quyền năng của loài trời cao hơn quyền
năng hạn chế của con người rất nhiều. Sách Phật
nói tới con mắt của loài trời có thể nhìn qua
vật cản, nhìn rất xa, gọi là thiên nhãn. Sách
Phật cũng nói tới tai loài trời, có thể nghe rất
xa gọi là thiên nhĩ.
Cõi
sống cấp thứ hai trong Dục giới là cõi loài A tu
la (Asuras). Loài Asuras tuy có quyền năng hơn
loài người và không kém gì loài trời, nhưng
chúng hay sân giận, hay sân chiến với loài trời.
Có sách gọi họ là Hung thần. Đàn ông dung mạo
xấu xí, nhưng đàn bà lại rất đẹp.
Cõi
thứ ba về trình độ quyền năng là cõi người. Cõi
trời có lòng dục, cõi A tu la và người được sách
Phật xếp là ba cõi thiện, ba cõi lành. Dưới ba
cõi này còn có ba cõi ác là cõi súc sanh, cõi
quỷ đói và cõi địa ngục. Cõi súc sanh thì ai
cũng biết và mục đích một phần. Quỷ đói là loài
thường xuyên bị đói do sự mất cân đối trong cấu
tạo cơ thể: bụng thì to như cái trống, cuống
họng thì bé như cái kim. Địa ngục không phải cái
ngục ở dưới đất, như danh từ địa ngục gợi ý. Địa
ngục chỉ cho những cõi sống rất khổ cực, không
thể đem so nỗi khổ cực của thế giới con người.
Sách Phật nói tới những địa ngục khác nhau, như
địa ngục nóng địa ngục lạnh, địa ngục Vô gián là
địa ngục cực khổ nhất, cực khổ không xen hở nên
gọi là Vô gián.
Sách
Phật nói tới luân hồi trong sáu đường, tức là
luân hồi trong ba cõi thiện và trong ba cõi ác.
Thực ra, chúng sanh ở hai cõi trời Sắc giới và
Vô sắc giới cũng không thoát khỏi cảnh luân hồi,
tuy rằng thọ mạng của họ có thể kéo dài hàng
vạn, hàng chục vạn năm.
Qua
phác họa nói trên về các cõi sống khác nhau theo
Phật giáo, thì không có cõi nào là cõi của người
chết cả. Vì vậy mà ngay từ đầu bài, tôi đã nói,
trong đạo Phật không có khái niệm cõi âm hay âm
phủ. Chết là cái tạm thời, sự sống là vĩnh hằng
và thể hiện qua những dạng sống khác nhau, trong
các cõi sống khác nhau, từ thấp tới cao. Người
Phật tử hiểu đạo không lo âu về sự chết, vì đã
có sống, có sanh ra, thì có chết. Người Phật tử
có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi
đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ
tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoát và
giác ngộ tối hậu, là cảnh giới bất tử của bậc
Thánh. Để kết thúc mục này, cho phép tôi dẫn
chứng hai bài thơ Thiền của Thiền sư Tri Bát,
Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Cả hai vị này đều sống
dưới đời nhà Lý.
Bài
thơ của Tri Bát đọc như sau:
Hữu
tử tất hữu sinh,
Hữu
sinh tất hữu tử
Tử vi
thế sở bi,
Sinh
vi thế sở hỷ
Bi hỷ
lưỡng vô cùng,
Hỗ
nhiên thành bỉ thử.
Ư chứ
sinh tử bất quan hoài.
Dịch
nghĩa:
Có
chết thì mới có sanh (trở lại)
Có
sanh ra thì có chết.
Chết
thì người đời buồn,
Sanh
thì người đời vui
Buồn
vui là hai cái lặp đi lặp lại vô cùng tận,
Vì
đối đãi nhau cho nên thành ra cái nọ đối với cái
kia.
(Cho
nên) đối với sanh tử, sống chết không có lo âu
gì...)
Còn
bài thơ của Từ đạo Hạnh đọc như sau:
"Thu
lai bất báo nhạn lai quy,
Lãnh
tiếu nhân gian động phát bi,
Vị
báo môn nhân hưu luyến trước.
Cổ sư
kỷ đổ tác kim sư".
*
Dịch ý:
Mùa
thu về không báo thì chim nhạn cũng bay về,
Cười
nhạt người đời hay bi thương
Nay
ta bảo cho học trò đừng có thương tiếc (ta).
Ngày
xưa ta đã từng làm sư, và đã nhiều đời ta lại
làm sư.
Ý tứ
của bài thơ của Từ đạo Hạnh là con người, lúc
thọ mạng hết thì chết, cũng như mùa thu về thì
chim nhạn cũng bay về. Ta cười nhạt người đời cứ
thấy chết là bi thương. Nay ta bảo học trò ta
chớ có lưu luyến ta nữa. Ngày xưa ta đã từng làm
sư, và đã nhiều lần ta lại làm sư.
Hai
bài thơ Thiền của hai Thiền sư đời Lý phản ánh
tâm lý bình thản, siêu thoát của những Phật tử
thâm hiểu đạo lý sống chết củ Phật giáo. Chết
đối với họ không phải là về nơi yên nghỉ cuối
cùng, mà là chuẩn bị tiến vào một cuộc sống mới,
được họ chuẩn bị một cách có ý thức, bằng cả một
cuộc đời, bằng từng giây phút của cuộc đời họ,
bằng từng ý nghĩ, lời nói và việc làm của họ
thiện lành, trong sáng.
Ở
đây, người Phật tử có trí và hiểu đạo có hai sự
chuẩn bị. Một là sự chuẩn bị lâu dài cho đời
sống tiếp sau. Hai là chuẩn bị cho cái chết sẽ
đến, mà họ muốn là nhẹ nhàng êm ả như lá thu
rụng.
Cả
hai sự chuẩn bị trên đều quan trọng, ảnh hưởng
lẫn nhau. Một người cả đời làm điều lành, nói
lời tốt, có tâm tư và ý nghĩ trong sáng thì khi
lâm chung, thường giữ được sự tỉnh táo và ra đi
một cách êm đẹp, sạch sẽ. Trong vòng một tuần
trước khi chết, họ thường biết là họ sắp chết,
cho nên họ có thời giờ và điều kiện dặn dò lại
mọi người trong gia đình. Họ thường xuyên nghĩ
lại, nhớ lại những điều thiện họ đã làm trong
đời, họ thường nằm mơ thấy những cảnh đẹp cho
nên nơi tâm họ luôn an vui thoải mái. Đó là
những điềm báo trước một đời sống kiếp sau rất
tốt đẹp, có thể là ở cõi người hay là ở các cõi
trời.
Sách
Phật kể lại có những người chết mà trong nhà có
hương thơm phảng phất, có ánh sáng lạ, thậm chí
có cả tiếng nhạc du dương. Đây không những là
điềm lành mà là điềm rất lành. Vua Trần Nhân
Tông sau khi thoái vị, xuất gia làm Tăng, trở
thành vị Tổ sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm,
cũng gọi là dòng Thiền Yên Tử. Ông biết trước
nhiều tháng ngày giờ ông qua đời, cho nên đã sắp
đặt đâu đấy chuyện người kế vị ông làm Tổ thứ
hai của dòng Thiền Trúc Lâm, tức là Tổ Pháp Loa;
lại có thời giờ đến vĩnh biệt bà chị, trước khi
cùng với hai Tăng sĩ dìu dắt ông, leo lên ngôi
chùa cao trên núi Yên Tử, ngồi nhập định mà qua
đời.
Quyển
"Thiền Uyển Tập Anh" là quyển sách sử xưa nhất
chép tiểu sử các cao Tăng Việt Nam có ghi chép
chuyện một số nhà sư Việt Nam đã ngồi nhập định
như vậy mà ung dung qua đời. Ở chùa Đậu, cách Hà
nội khoảng 15km về phiá huyện Thường Tín, còn có
tượng hai vị sư đã chết trong tư thế ngồi như
vậy. Học trò của hai vị đã dùng sơn đen phủ lên
nhục thân của hai ông. Cách đây vài năm, các
giáo sư, bác sĩ ở bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) đã
khám nghiệm hai bức tượng "nhục thân" và xác
quyết đó không phải là tượng bình thường mà là
hai xác chết, phủ lên trên một lớp sơn đen dầy.
Nói
tóm lại, chết không phải hết tất cả, chết là bắt
đầu một cuộc sống mới; tốt đẹp hay là không tốt
đẹp, là tùy theo nghiệp được tạo ra trong đời
sống này. Cuộc sống thiện lành sẽ đem đến một
cái chết êm ả, bình tĩnh và một cuộc sống đời
sau cũng tốt đẹp hạnh phúc.
3. Cõi trung ấm
hay trung hữu theo Phật giáo có phải là cõi âm
hay không?
Theo
đạo Phật, một số người không phải là tất cả, sau
khi chết có thể trải qua một cuộc sống trung
gian gọi là trung hữu hay trung ấm, trước khi
tái sanh vào một cõi sống mới, với một thân phận
mới.
Tôi
nói một số chứ không phải tất cả mọi người là vì
có những người chết thì lập tức tái sanh ngay
hay là hoá sanh ngay qua một cuộc sống khác, với
một thân phận khác. Hai loại ví dụ thường được
sách Phật dẫn chứng nhất là những người sống cực
ác, thì khi chết lập tức hóa sanh xuống địa
ngục, cõi quỷ đói hay là súc sanh. Hay là những
người trong đời sống rất thiện lành, khi chết
cũng hoá sanh lên các cõi trời. Chỉ có những
người sống cuộc đời thiện ác xen lẫn, thì thường
chết rồi không tái sanh ngay mà trải qua một
cuộc sống trung gian, tạm thời, được tin là
nhiều nhất cũng không quá 7 tuần, tức 49 ngày.
Người chết, trút bỏ cái thân làm bằng loại vật
chất thô nặng, mang một cái thân khác, làm bằng
loại vật chất tế nhị, với những giác quan đầy đủ
như giác quan của người sống, nhưng cũng tạo
bằng loại vật tế nhị (mà sách Phật gọi là tịnh
sắc hay sắc thanh tịnh), do đó mà giác quan của
thân trung hữu hay trung ấm tinh tế và nhạy bén
hơn giác quan của người sống rất nhiều. Họ thấy
chúng ta được, nhưng chúng ta không thấy họ
được. Họ có thể đi bình thường hay là có thể bay
tùy ý. Thân trung ấm có thể bay qua hay đi qua
các vật cản, không bị trở ngại. Do đó mà khi cha
mẹ tương lai của thân trung ấm giao hợp, nếu đủ
nhân duyên tương xứng, thì thân trung ấm đến nơi
trong nháy mắt và chui vào bụng mẹ, kết thành
bào thai một cách dễ dàng. Mặc dù họ thấy, nghe
chúng ta, nhưng họ không thể giao tiếp với chúng
ta như người sống với người sống được. Họ có cảm
giác bất lực rất là bức xúc, khi họ muốn tiếp
xúc với những người sống, thường là bà con thân
thiết với họ. Cảm giác bất lực đó đi đôi với
những quyền năng đặc biệt, mà họ có được nhờ cái
thân thể tạo bằng loại vật chất đặc biệt tế nhị
của họ. Họ nghĩ đến chỗ nào thì họ có thể đến
chỗ ấy trong nháy mắt. Bay lượn, đi hay là bay
qua vật cản, thấy nghe được ở tầm xa v.v...cũng
là quyền năng thần thông, nhưng quyền năng này
không phải được thành tựu do tu tập thiền định,
mà là do nghiệp, do mang thân trung ấm, làm bằng
loại vật chất tế nhị, cho nên bộ luận Câu Xá của
Hữu Bộ gọi là nghiệp thông, nghĩa là quyền năng
thần thông do nghiệp mà có.
Vì
thân trung ấm còn lưu luyến gia đình cũ, với bà
con, thân thuộc bạn bè cho nên họ hay quanh quẩn
nơi nhà ở cũ, và nuôi dưỡng thân bằng mùi, mà
sách Phật gọi là hương. Nghĩa là thân trung ấm
không phải ăn những thức ăn bày trên bàn thờ, mà
chỉ ăn cái mùi của những thức ăn đó mà thôi.
Tôi
nghĩ rằng, cõi âm mà chúng ta nói như là cõi của
người chết chính là cõi trung hữu hay trung ấm
của Phật giáo. Cần nói thêm rằng, xung quanh vấn
đề thân trung ấm đã từng có tranh luận trong
giới Phật học, ngay từ trước tây lịch, trong
thời gian mà lịch sử Phật giáo Ấn Độ gọi là Phật
giáo bộ phái. Khoảng 100 năm sau khi Phật nhập
niết bàn, thì Giáo hội Tăng già Ấn Độ không còn
là một tổ chức thống nhất nữa. Lúc đầu, tách ra
làm hai bộ phái lớn là Thượng tọa bộ
(Theravada), chủ yếu gồm những Tăng sĩ lớn tuổi,
là chức sắc trong Giáo hội cho nên bộ phái này
mang cái tên "bộ phái của Trưởng lão", tức
Thượng tọa bộ.
Bộ
phái thứ hai gọi là Đại chúng bộ, tên chữ
Sanskrit là Mahasanghanikas, bao gồm số đông
Tăng sĩ trẻ, cấp tiến. Sau đó, từ hai bộ phái
lớn trên, dần dần tách ra nhiều bộ phái khác,
cuối cùng con số lên đến 18 bộ phái, cộng với
hai bộ phái gốc, thành ra có đến 20 bộ phái. Nói
chung, Thượng tọa bộ có tính bảo thủ hơn, nặng
về bảo tồn giáo lý nguyên thuỷ của đạo, đúng như
thời Phật còn tại thế. Còn Đại chúng bộ thì có
tư tưởng cấp tiến hơn, chủ trương phát triển
giáo lý nguyên thuỷ theo yêu cầu của thời gian
và không gian. Các bộ phái tranh luận với nhau
về hàng loạt vấn đề, trong đó có vấn đề trung ấm
thân. Thí dụ, Thượng tọa Bộ cho rằng, người chết
lập tức tái sanh ngay, cũng như ngọn đèn này tắt
châm sang ngọn đèn khác lại cháy ngay. Đó là
quan điểm của Thượng tọa bộ, thấy rõ trong bộ
luận cơ bản và danh tiếng "Thanh tịnh đạo luận"
(Visudhimagga). Nhưng trái lại, bộ phái rất có
thế lực, tách khỏi Thượng tọa bộ, tức là Nhất
Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada), thì khẳng định là
có thân trung ấm, trong bộ luận nổi tiếng "Câu
xá", mà tác giả là vị luận sư Đại thừa xuất sắc
Vasubandhu (Thế thân)..Những mô tả về thân trung
ấm được Vasubandhu ghi khá cụ thể trong bộ luận
Câu xá (phẩm về nghiệp).
Gần
đây, ở Mỹ có bộ phim mang đầu đề "The Ghost"
(con ma), thực ra là một bộ phim về thân trung
ấm. Người bị chết, sau khi thành thân trung ấm,
cứ ngỡ là mình vẫn còn sống, nhưng cảm thấy hoàn
toàn bất lực không thể giao tiếp, nói chuyện
được với người yêu cũ của mình, cũng như vói các
bà con, bạn bè thân thuộc, mà mình vẫn gặp hàng
ngày như khi mình vẫn còn sống vậy. Tuy vẫn
thấy, vẫn gặp người quen, người yêu cũ, bạn bè,
nhưng không tài nào giao tiếp hay nói chuyện với
họ được.
Nói
tóm lại, thân trung ấm dù tồn tại tạm thời trong
khi chờ đợi tái sanh, cũng chỉ là một dạng sống
như muôn vàn dạng sống khác; cho nên, chụp cho
nó cái tên là "con ma" như cuốn phim Mỹ là không
thích đáng. Chúng ta chờ đợi khoa học phát minh
ra các phương pháp và công cụ để chúng ta có thể
giao tiếp với các thân trung ấm, và chắc chắn là
lúc ấy, nhiều vụ án hình sự được phanh phui dễ
dàng.
* KẾT
LUẬN:
Trong
khi chờ đợi khoa học phát minh ra được công cụ
và phương pháp giao tiếp với các thân trung ấm
trong cõi trung hữu, thì mọi thông tin về sự
giao tiếp giữa con người sống với thân trung ấm
chỉ có thể là những sự kiện rất cá biệt, hiếm
có, có thể do những điều kiện như sau:
1.
Bản thân người đương sự đã tu tập thiền định đến
trình độ đạt được một số quyền năng thần thông,
trong đó có thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông,
tạm dịch là mắt loài trời và tai loài trời. Có
độc giả đã ví con mắt thịt của loài người như
mắt một người ngồi trong nhà, xung quanh là bốn
bức tường kín mít, chỉ trừ một lỗ nhỏ để cho con
ngươi nhìn qua đó. Và mắt loài trời đã được tác
gỉa ví như mắt một người ngồi trên một tảng đá ở
bờ biển, có thể nhìn xa tận chân trời góc biển (xem
"The five eyes" (năm con mắt), T.Shen). Nhưng
cuộc sống hiện đại rộn rịp hiện nay, đạt tới
trình độ thiền định như vậy không phải là chuyện
dễ. Vả chăng, nếu có người tu định đạt tới trình
độ như vậy, thì họ lại không nói ra.
2. Có
nhân duyên tiền kiếp đặc biệt khiến cho có sự
giao cảm giữa người sống ở cõi người với những
người đã chết, nhưng hiện đang sống ở một cõi
sống khác, cao cấp hơn cõi người. Vì là thuộc
một cõi sống cao cấp hơn, có quyền năng hơn
chúng ta rất nhiều, cho nên họ có thể đến với
chúng ta nhưng chúng ta không thể đến với họ
đuợc. Họ có thể bày cho chúng ta cách thức làm
như thế nào để họ giao tiếp với chúng ta. Nhưng
đây là những trường hợp rất đặc biệt, giữa hai
bên phải có những ân tình sâu sắc.
Tôi
không thể tin là có một cõi sống đặc biệt dành
riêng cho những người đã chết. Nghĩa là có các
cõi sống khác nhau, nhưng không có một cõi nào
của người đã chết cả. Không thể có cõi sống dành
cho những người chết, đó là một mâu thuẫn ngay
trong bản thân từ ngữ, một chuyện tưởng tượng,
hoang đường. Đạo Phật công nhận có cõi sống
trung ấm, nhưng đó là một cõi sống tạm thời,
trung gian. Thân trung ấm cũng là một loại thân
vật chất, tuy rằng đó là loại vật chất đặc biệt
mà con mắt thịt của cõi nguời không thể thấy
được. Nhưng đã là thân vật chất thì không thể
tồn tại lâu được, nó cũng phải biến đổi và hoại
diệt.
Khi
mà khoa học chưa phát minh ra được những phương
pháp và công cụ thích hợp để cho chúng ta có thể
giao tiếp được với cõi trung ấm, thì chúng ta
hãy chờ đợi. Mọi thông tin về cõi trung ấm, cũng
như về các cõi sống khác, chúng ta không vội bác
bỏ cũng không vội cả tin. Phải chăng đó là thái
độ khoa học nhất hiện nay?
|