CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
TỊNH
SỸ
biên soạn
Khải ngôn
Hóa thành không phải là Bảo sở nhưng muốn đi đến
Bảo sở không thể không đi đến Hóa thành. Giới,
định, tuệ chưa phải là cứu cánh Niết bàn. Song
muốn chứng cứu cánh Niết bàn không thể không
thành tựu giới, định, tuệ. Hay nói cách khác,
muốn đắc thành Phật đạo không thể không đi vào
cảnh giới thanh tịnh. Đó chính là lý do Ngài
Nhứt Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Bồ tát vì cầu
thành Phật lại phải kinh hành và thiêu mình cúng
dường Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai cả
mười mấy ngàn năm để được sinh vào gia đình vua
Tịnh Đức. Và cũng lẽ ấy nên Đức Thế Tôn không ai
hỏi mà tự nói pháp môn niệm Phật, khuyên chúng
sinh nguyện về Tây phương Tịnh độ để chứng đắc A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như vậy, sinh về
Tây phương Tịnh độ là điều cần yếu cho tất cả
những ai muốn giải thoát thành tựu Phật đạo. Tuy
nhiên, làm sao sinh về Tịnh độ? Hành giả phải
trải qua một ngã đường như thế nào để đến được
Tây phương ? Không ngại sự thấy biết nông cạn,
bút giả xin bàn bạc cùng chư huynh đệ con đường
Tây phương an lành ấy.
Tịnh Sĩ
CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
Tất cả các pháp đều do tâm biến hiện ra. Ta bà
hay Phật cảnh đều do tâm mà thành, chúng sinh
hay Phật đều từ tâm mà có, … Tâm vốn không, chư
Phật và chúng sinh cũng không. Tâm là huyễn,
Phật và chúng sinh cũng huyễn. Một là huyễn thì
tất cả đều huyễn, một là không thì tất cả đều
không. Không mà huyễn, huyễn mà không, ấy là
tướng thật của vạn pháp.
Ta bà hay Tịnh độ đều chẳng ngoài tâm. Cả hai
đều là không, cả hai đều là huyễn, là huyễn mà
không, là không mà huyễn. Tất cả đều đồng nhất
là giả tướng của huyễn. Tất cả đều vô biệt ở
đường thể không. Thế nên Ta bà không thì Tịnh độ
cũng không, Ta bà huyễn thì Tịnh độ cũng huyễn;
nghĩa là xét thể tánh thì tất cả đều không, nhìn
ở giả tướng thì tất cả đều huyễn hữu, và khởi
huyễn hữu tâm thì huyễn hữu sinh huyễn hữu Ta bà
hay Tịnh độ.
Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh luôn luôn khởi tâm
và bởi tâm đó mà có ra các cảnh giới. Tâm địa
ngục thành cõi địa ngục, tâm con người xây dựng
thế giới loài người, tâm Phật kiến tạo cõi Phật.
Nếu thấy được con người là không thì thấy chư
Phật cũng không. Còn đã bảo loài người hiện có
thì phải nhận cõi Phật cũng có, tức là có thế
giới con người thì có cảnh giới Phật, có Phật A
Di Đà, có Tịnh độ Tây phương. Có con người, có
chư Phật, có cõi người, có cõi Phật, có trầm
luân, có giải thoát, có vãng sinh có thành Phật,
…Là chúng sinh giác ngộ muốn trở về với sự sáng
suốt chân thật, thành tựu Bồ đề, chứng Chánh
Đẳng Giác, chúng ta không thể không đi theo con
đường của chư Phật, rèn luyện tâm hồn bằng sự
thực hành tu tập.
Trong các đường lối pháp môn tu thành Phật, pháp
môn niệm Phật là con đường thẳng tắt nhất, và
trong các phương pháp niệm Phật giải thoát,
phương pháp trì niệm hồng danh A Di Đà Phật cầu
sinh Tây phương Cực lạc là dễ dàng nhất. Với
pháp môn này, hành giả chỉ cần có niềm tin vững
chắc, thành thật nguyện sinh Tây phương và
thường xuyên trì niệm hồng danh đức Phật A Di Đà,
thực hành chuyên cần và thuần thục, hành giả sẽ
vãng sinh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà
khi mãn báo thân người. An trú trong cảnh giới
thuần tịnh, giải thoát này, mỗi vị đã được sinh
về sẽ khai phát sự giác ngộ, chứng bất thối
chuyển và cuối cùng thành Phật. Tùy trình độ tâm
linh của mỗi vị, sự khai phát ấy có nhanh chậm
khác nhau.
Đó là đường lối của pháp môn thẳng tắt dễ dàng
niệm hồng danh A Di Đà Phật. Tuy nhiên, trên
phương diện thực hành, hành giả cần phải biết rõ
cách thức ứng dụng tu tập, có vậy sự dụng công
phu tu tập mới thu được kết quả tốt đẹp, bằng
chẳng thấu suốt cách dụng công thì sự thực hành
phải gặp nhiều chướng ngại, tốn nhiều công sức
và kết quả không như ý nguyện.
Tây phương Cực lạc là cảnh giới thanh tịnh giải
thoát. Thanh tịnh là vô nhiễm là thuần thiện,
giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba
cõi là xả ly thế gian. Như vậy, muốn về Tây
phương Cực lạc, hành giả cần phải có tâm thanh
tịnh giải thoát, thuần thiện ly thế gian.
Tâm thanh tịnh hay tâm thuần thiện trong sạch là
tâm dứt bặt mọi phiền não ác nghiệp nhiễm ô. Tâm
giải thoát hay tâm ly thế gian là tâm không còn
vương mang ái dục phàm phu thế tục.
Tóm lại, muốn chắc chắn vào được cảnh giới Tây
phương Tịnh độ, hành giả phải rèn luyện thành
thục tâm mình đến chỗ thánh thiện không còn ái
dục nhiễm ô.
Để được như thế về thực hành, hành giả cần tu
tập theo trình tự ba giai đoạn:
1. Giai đoạn trao dồi thiện tâm
2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
3. Giai đoạn chuyên tu niệm Phật, thành tựu niệm
Phật tam muội.
I. Giai đoạn trao dồi thiện tâm
Giai đoạn này cũng là giai đoạn gột rửa tâm hồn,
vì ở giai đoạn này, hành giả dùng mọi phương
tiện để giải trừ tất cả tập khí xấu ác của bao
đời trước (kiếp trước) giúp tâm trở nên trong
sạch hiền thiện, đảm bảo không sa vào ác đạo.
Cũng gọi là giai đoạn nuôi dưỡng đức hạnh. Hành
giả song song với việc xả ác, luôn luôn rèn
luyện, dưỡng nuôi tất cả các phẩm hạnh thanh cao,
các đức tính quý báo để chuẩn bị cho việc tu tập
giải thoát, đảm bảo đường tu không bị chướng
ngại. Đây là giai đoạn rất quan trọng, là căn
bản của mọi sư tu hành giống như nền móng của
căn nhà, nếu không trải qua một sự tu tập thuần
thục vững chắc ở giai đoạn này, thì mọi sự tu
tập giải thoát nào khác đều bị thất bại.
Không gột rửa tâm trở nên hiền thiện, cứ để mầm
ác ẩn tàng trong tâm thức thì khó tránh khỏi lạc
vào tà đạo. Một khi đủ duyên, ý ác sinh khởi, nó
sẽ biến mọi Phật sự thành ma sự, phá hoại tất cả
các công đức lành. Nếu không rèn luyện đức hạnh,
cứ để các thói quen xấu như dễ xao động, dễ thối
lui, thiếu nhẫn nhục, thiếu khiêm tốn, hòa hợp,…
thì khó tránh sự gẫy đổ và các chướng ngại trên
đường tu tập khiến không thành tựu kết quả.
Bởi chúng ta từ vô thỉ đến nay đã huân tập vô số
chủng tử bất thiện, chúng luôn luôn ẩn tàng
trong tâm, mỗi khi đủ duyên, chúng sẽ khởi dậy,
giống như các hạt giống cỏ dại trong nền đất
lặng lẽ, khi đủ điều kiện nước, ánh sáng, … liền
tự mọc mầm.
Những chủng tử bất thiện như tham lam, ích kỷ,
gian xảo, sân hận, thù hiềm, ganh ghét, đố kỵ,
phá hoại, đam mê, điên đảo, ngã mạn, khinh người,
không nhận lỗi, chê thiện, vui ác, … chúng là
nguyên nhân gây ra các tội lỗi, lôi kéo chúng
sinh vào ba đường ác, chúng liên kết với nhau
khiến hành giả bỏ mất đạo tâm.
Như tu hành còn tham danh tất thường khoe khoang,
gặp người hơn mình thì ghen tỵ, dèm chê, tìm
cách hại danh dự người, … tâm hồn cứ loanh quanh
vấn đề danh dự. Mọi việc làm đều do tâm cầu danh
sai sử, trở thành bè đảng của ma, dù có làm việc
thiện cũng là ma sự. Khi bị trái ý tổn hại đến
danh dự mình thì trở nên sân hận, hiềm thù. Điều
ác còn chưa đoạn được thì mong gì thành tựu giải
thoát.
Hoặc tu đạo mà ôm lòng ngã mạn, tự cao tự đại,
xét lỗi người, đối trên bất kính, nhìn xuống
khinh thường, chẳng học hỏi người, chẳng sửa lỗi
mình. Như vậy tâm hồn chỉ chứa đựng đầy thứ xấu
xa tội lỗi, khó vươn tới chỗ thanh cao đạo đức.
Há có thể giải thoát sinh tử?
Bên cạnh những chủng tử bất thiện ấy, con người
chúng ta còn có rất nhiều thói quen không tốt
như thiếu bền chí, thiếu cam nhẫn, không tri túc,
lười biếng, ỷ lại, đa ngôn, hấp tấp, không tự
tin, không chú tâm, không chuyên nhất, hí luận,
trạo cử, cố chấp, hơn thua, sợ hãi, … Trong đời
sống tu hành không ai tránh khỏi những khó khăn
do nghiệp chướng hoặc ngoại cảnh đưa đến, đồng
thời công phu giải thoát cũng đòi hỏi hành giả
phải có một nhân cách hoàn hảo. Nếu còn những
thói quen không tốt thì trên đường tu tập, hành
giả khó vượt qua chướng duyên, khó đạt đến chỗ
giải thoát trọn vẹn. Do đó, bước vào con đường
giải thoát, muốn có sự vững chắc và nhẹ tiến,
trước tiên hành giả phải thanh lọc tâm mình, rèn
trau đức hạnh. Đây chính là chỗ nói: “Muốn tu
tiên đạo trước tu nhân đạo”, hoặc “Nhân đạo bất
tu, tiên đạo viễn hỷ” ấy vậy.
Tu dưỡng thiện tâm, hành giả phải thông suốt
nhân quả nghiệp báo, biết rõ ràng tất cả đều do
duyên sinh, phân biệt thế nào là thiện ác ngay
trong mỗi điều giới luật nhỏ nhặt và phải thấy
tầm quan trọng của nó.
Hành giả phải thường xuyên tìm xét lỗi mình, ở
mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ do mình khởi ra,
đều phải thành thật nhận biết tính chất thiện ác,
hay dở, lợi hại, đúng sai của nó. Thấy ác, sai
dở thì lập tức xả bỏ; thấy thiện, đúng hay thì
cố gắng hành thêm. Bởi có thấy được lỗi của mình
thì mới lo tu sửa, càng thấy mình nhiều lỗi lầm
khuyết điểm, tâm càng thêm hỗ thẹn, càng tinh
tấn rèn luyện học hỏi tu tập. Hành giả chỉ nên
chú ý lỗi mình, không nên tìm xét lỗi người,
không nghĩ xấu về người, … Vì xét lỗi người,
nghĩ xấu về người sẽ làm tâm hành giả chất chứa
thêm nhiều điều bất thiện. Trong mọi việc sai
trái, phải thấy có lỗi mình trong đó.
Song song với việc xét lỗi mình, hành giả phải
chú ý điều hay của người, tìm học các gương sáng,
các đức tính quý giá của những bậc tiền bối, của
chư thánh hiền và của tất cả chư Phật. Luôn luôn
chiêm nghiệm tưởng nhớ công đức, đạo hạnh của
các Ngài, để các đức tính quý báo ấy thâm nhập
mạnh mẽ trong tâm thức, làm tiêu hoại những
chủng tử nhiễm ô đã huân tập từ vô thỉ.
Do đó, ở giai đoạn này, hành giả có thể tập tu:
đọc kinh, sám hối, lễ Phật, niệm Phật, suy tư,
đọc sách, làm phước thiện, …
Đối với tất cả các việc thiện, hành giả phải sốt
sắng vui vẻ thực hành, tùy theo khả năng mà làm,
không nên vì lười biếng mà bỏ qua. Dù là việc
nhỏ nhặt cũng không được coi thường, sẵn sàng xả
thân cho các việc thiện ấy. Tâm say mê với việc
lợi mình lợi người, có như thế những chủng tử
xấu ác mới không còn dịp sinh khởi. Hành giả
phải làm với tâm niệm trưởng dưỡng thiện căn và
lợi ích chúng sinh, không nên làm vì lợi ích cá
nhân, thỏa mãn tính hiếu thắng cầu danh dự và
tình cảm. Được như vậy, việc hành thiện mới
không bị chướng ngại khi gặp khó khăn, mới không
phát sinh phiền não khi gặp điều trái ý và không
trở thành ma sự khi mình được lợi. Tùy theo
nghiệp chướng của người và của mình mà làm thiện
cho phù hợp, nhằm đoạn trừ ác nghiệp. Tham xẻn
thì thường bố thí buông xả, khuyên người thí xả,
tưởng niệm nhân quả phước điền vị tha; nghiệp
sân độc thì nói lời lành, gần người hiền đức,
tập nhu hòa, tưởng niệm từ bi, nhẫn nhục; nghiệp
si mê tà kiến thì lo đọc kinh, nghe pháp, khuyên
người học chánh pháp, bố thí kinh điển, cung
kính bậc trí tuệ,…
Tóm lại, làm thiện theo nhân duyên như tùy bệnh
cho thuốc, bệnh gì thuốc nấy sao cho người mình
trở nên thiện lành.
Mỗi một cảnh duyên thuận nghịch nào đưa đến,
hành giả cần nên nghĩ tưởng “đó là do nghiệp quả
của mình chiêu cảm và theo nghiệp mà thay đổi”.
Hành giả không trốn tránh, không say đắm, bình
thản đón nhận. Thường hay quán sát nhân quả của
mình trong mọi hình thức sinh hoạt hằng ngày,
hành giả sẽ giữ được sự an bình, tự chủ và sáng
suốt khi đối diện với gió đời vui buồn, vinh
nhục … Giai đoạn này, hành giả không được để tâm
ngừng nghỉ mà phải thường xuyên vận dụng nó, nhờ
nó quán xét suy tư sự thật của cuộc đời theo ánh
sáng chân lý, khiến tâm thức thấm nhuần đạo pháp.
Điều nên chú ý là khi thấy mình có nhiều lỗi lầm
khó sửa đổi cũng không được bi quan buồn chán.
Hãy nghĩ rằng “chúng sinh ai cũng có lỗi, nghiệp
chướng nào cũng khó trừ, chỉ cần cố gắng, tất cả
đều có ngày cùng tận, tánh xấu có lúc phải hết”.
Ngay thấy mình có các lỗi lầm, hành giả phải suy
xét nguyên do sinh ra lỗi ấy, sự lợi hại của nó
và xả bỏ nó. Biết rõ các lỗi lầm như thế, hành
giả sẽ dễ dàng dứt khoát đoạn trừ, đoạn trừ ngay
tận gốc của nó. Hành giả không nên sợ hãi đối
mặt với tính xấu của mình, dù nó đê tiện cũng
nhắm ngay nó mà quan sát phân tích cho thấu đáo,
sau đó mới dứt khoát quên đi để rèn luyện đức
tính ngược lại nó. Vì khi thấu triệt rồi, không
cần nghĩ đến nó nữa, cứ tưởng niệm pháp thiện
thường xuyên thì các nghiệp ác ấy sẽ dần dần
tiêu mất.
Ví dụ thấy mình còn sân hận, biết rõ là mình
chấp ngã, tham danh, cố chấp sự tướng … Thấy sự
lợi hại của việc sân hận là thỏa mãn bản ngã,
phá tiêu thiện tâm công đức, khổ mình, khổ người,
chiêu cảm ác báo… Nhận biết nếu đoạn dứt được
sân hận thì tâm hồn luôn an lạc, thiện tâm tăng
trưởng, thiện nghiệp phước thiện tăng mãn, đưa
đến giải thoát sinh tử… Quan sát thường xuyên
như thế, nghiệp sân sẽ bị mất gốc, hành giả trở
nên an tâm, không còn theo đuổi niệm sân hận.
Bấy giờ hành giả cứ chuyên tâm niệm tưởng đức từ
bi của chư Phật thánh hiền, hoặc nguyện cầu
chúng sinh đều sống từ bi. Không nhớ nghĩ đến
chuyện sân hận của mình nữa, nhưng mỗi khi vừa
muốn sân thì phải trực nhận liền, rồi phát tâm
từ bi thông cảm khiến nó tiêu tan. Đối trị
nghiệp tham đắm, ích kỷ, ngã mạn, cố chấp…cũng
phải quan sát và khéo léo tu tập như thế. Được
như vậy mới gọi là lấy gươm trí tuệ đoạn trừ
nghiệp chướng hay biến phiền não thành Bồ đề vậy.
Rèn luyện tánh hạnh tốt, hành giả phải thực hiện
ngay nơi việc mình làm hằng ngày, dù là việc nhỏ
nhặt cũng phải làm trong ý thức tu tập.
Như rèn luyện “bền chí” thì ngay nơi các việc
làm, dù đơn giản hay khó khăn, lớn hay nhỏ phải
thực hành chu đáo tới nơi tới chốn. Ví dụ: xách
nước vào lu, xách đến khi đầy lu mới thôi; quét
sân thì quét giáp sân mới nghỉ mà không bỏ dở
nửa chừng. Việc khó khăn lớn nhỏ đều bền chí tới
cùng như vậy. Ngay nơi việc nhỏ nhặt tập luyện
được, lâu ngày sẽ thành thói quen. Về sau này
gặp việc khó khăn quan trọng mới có thể kiên tâm
đến đích.
Xả trừ thói quen hấp tấp loạn động, rèn hạnh từ
tốn thung dung cũng ngay nơi sinh hoạt hằng ngày,
không gián đoạn ở thời khắc nào. Đi đứng nằm
ngồi, nói năng làm việc, nhất nhất đều thong thả
cẩn thận.
Rèn luyện nhẫn nhục, tinh tấn, hỷ xả, hòa hợp,
tự chủ, chuyên tâm … cũng thế.
Tóm lại, hành giả phải coi tất cả các hoạt động
thường ngày là môi trường rèn trau đức hạnh của
mình. Mọi lời nói, cử chỉ đều cần phải chú tâm
luyện tập cho được tốt đẹp, ý nghĩa là tu trong
mọi lúc, mọi nơi.
Hành giả cũng thường nên khởi các lời nguyện cầu
để trưởng dưỡng thiện tâm đến chỗ hoàn mỹ. Như
nguyện tất cả chúng sinh đều được an lành,
nguyện tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh,
nguyện tất cả chúng sinh đều sống hỷ xả, từ bi,
nguyện tất cả chúng sinh đều được giải thoát…hoặc
khởi các lời nguyện như các vị Bồ tát trong kinh
Hoa Nghiêm thường phát nguyện như thế. Những
chủng tử lành thấm sâu nơi tâm thức hành giả sẽ
tôi luyện tâm hồn thuần tịnh cao thượng, tràn
đầy từ bi, dứt bặt ác nghiệp, giống như ly tách
có mùi hôi, nay đựng đầy một thứ rất thơm tho
ngon ngọt, ly tách liền trở nên thơm tốt vậy.
Giai đoạn này chú trọng việc tu thiện, chỉ lo
bồi dưỡng thiện tâm, không quan tâm đến sự phan
duyên động niệm hay đoạn tuyệt ái dục, do đó,
hành giả còn nhiều ý niệm ái dục và thiếu định
tâm. Tuy vậy, hành giả không nên lo sợ, cứ phát
khởi tâm lành cho đến khi tâm tràn đầy từ bi,
không còn ác nghiệp phiền não và thành tựu các
đức hạnh cần yếu cho việc tu tập giải thoát, có
điều là tránh các duyên làm tâm ái dục thêm
mạnh, hoặc các duyên làm tâm khó định tỉnh để
giữ gìn đạo tâm mà thôi.
Khi nào hành giả nhận thấy tâm mình đã đạt được
sự hài hòa, đối với các cảnh thuận nghịch đều
giữ được sự trong sạch không phiền não ác niệm
và các đức tánh khiêm tốn, bền chí, nhẫn nhục,
giản dị, hòa hợp, chuyên tâm, cần mẫn, trang
nghiêm, kham khổ, cầu tiến, rộng lượng, từ ái,
vị tha, bình tĩnh, hỷ xả, tự tin, tự chủ, chú
tâm, chuộng thiện, tàm quý, tri túc, an bần,
chân thật, lạc quan, thanh tịnh, xả ác, ẩn đức,
kính nhân, trọng đạo…đều đã được rèn luyện vững
chắc, bây giờ có thể xem như thành tựu giai đoạn
tu dưỡng thiện tâm này. Hành giả đã đủ khả năng
đi vào con đường giải thoát.
II. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
Cũng gọi là giai đoạn xả ly thế gian. Hành giả
dứt trừ ái dục, sống nếp sống ngoài vòng tục
lụy.
Cũng gọi là giai đoạn hướng về Tây phương. Hành
giả chuyên tâm cầu sinh Tây phương Cực lạc,
thành thực chí nguyện giải thoát.
Ở giai đoạn rèn tâm hành thiện trên, hành giả
chỉ mới cải đổi tâm trở nên tốt đẹp, sống với
niệm từ ái, yêu thương, hành giả còn khởi các
ham muốn tốt lành để diệt trừ nghiệp ác. Do vậy,
tâm ái dục của hành giả vẫn còn, hành giả còn bị
thế gian chi phối, tâm yêu tiếc thế gian còn
mạnh, ý rong ruổi thế gian còn nhiều, chí giải
thoát còn yếu. Thế nên, khi tâm mình trở nên
hiền thiện rồi, hành giả phải tiếp tục giải
thoát, xả ly ái dục của thế gian.
“Ái” ở đây không có nghĩa là riêng chỉ cho tình
thương nam nữ, vợ chồng, mà bao gồm mọi sự đắm
trước của chúng sinh đối với muôn loài vạn vật.
Tình thương dù với ý nghĩa gì nếu không chừng
mực, không có lý trí soi sáng, không hướng
thượng và có tính cách ràng buộc, đều gọi là ái.
Đắm luyến sự vật cũng gọi là ái. Còn ái luyến
thế gian tất còn trở lại thế gian.
“Dục” tức ham muốn. Dục ở đây không phải riêng
nói về dục lạc xác thịt mà gôm chỉ hết tất cả
các ham muốn ở thế gian, từ những ham muốn xấu
xa đến các ham muốn tốt và các loại ham muốn vô
nghĩa, không thiện không ác. Những ham muốn xấu
ác, ở giai đoạn đầu hành giả phải trừ sạch.
Trong giai đoạn này, hành giả còn các ham muốn
thiện và vô ký (không thiện không ác) ngoại trừ
mong muốn giải thoát, tất cả các mong muốn thiện
và vô ký ấy đều phải được xả bỏ. Ví dụ chúng là
thiện, chúng còn là thế gian hữu lậu sinh tử.
Hành giả chỉ sống và làm những việc cần thiết
phải làm chứ không được muốn làm. Muốn hay
không muốn đều trái với tâm giải thoát.
Ở giai đoạn trước, hành giả cần khởi tâm muốn
làm các việc lành. Nhưng ở giai đoạn này thì
không được muốn nữa. Vì “muốn” là biểu hiện của
sự chưa cần và không thật ích. Thực hành công
phu giải thoát mà còn ham làm việc này việc nọ,
muốn món này món kia thì khó tránh loạn động,
không thể xa lìa thế gian, làm sao đạt kết quả
giải thoát ? Đối với sự vật, dù biết là tốt cũng
không được muốn. Tâm muốn vi tế đưa đến tâm tham
luyến, tâm muốn thô tháo đưa đến tâm tham cầu,
cả hai đều là ràng buộc, cả hai đều đến lo âu
phiền não khi không thành tựu. Mọi vật, mọi
việc đúng duyên phải đến thì không tránh nó,
nhưng chưa đến thì không nên muốn, còn đã mất đi
thì không nên luyến tiếc.
Tâm ái làm cho con người đắm say khi tiếp đối
thế gian và khiến người ta tiếc nuối lúc xả ly
thế gian. Tâm dục (ham muốn) làm con người tầm
cầu dong ruổi theo thế gian. Tâm ái dục này
thường gây ra sự sợ hãi lo âu và phiền não khi
xa lìa thế gian và gặp cảnh trái với nó, khiến
chúnh sinh quay cuồng trong các sự việc thế
gian, nó là cội gốc của sự luân hồi không dứt.
Hành giả tu giải thoát phải tỉnh giác nhận rõ
những biểu hiện của ái dục và ngăn trừ khi nó
vừa phát khởi nơi tâm. Từ chỗ tiếp xúc với các
thứ thuận lợi vừa ý, tâm sinh nên thích, đây là
cội nguồn của ái. Mến thích đưa đến thân hậu, lo
lắng, chăm nom, tức là ái đã hình thành. Từ thân
hậu lo lắng, chăm nom trở nên sợ hãi khi nghĩ nó
hoại mất là ái đã mạnh hơn lý trí và buồn nhớ
tiếc nuối khi những thứ ấy mất mát hoặc lìa xa,
tức đã bị ràng buộc, ái đã ăn sâu nơi tâm thức.
Tâm ham muốn phát sinh từ sự phân biệt thấy lợi
vừa ý hoặc do lòng ái trước đưa đẩy để thỏa tính
tham nhiều. Một ý niệm ham muốn vừa khởi nếu
không được tự chủ đoạn trừ sẽ đưa đến sự tìm
cầu, suy tính lo âu, sợ hãi và não phiền điên
đảo.
Hai tâm ái và dục này trợ giúp nhau, nối tiếp
nhau làm hành giả luôn loạn động quay cuồng
thiếu tỉnh giác, khó chuyên nhất trong việc tu
hành.
Để xả ái dục, hành giả hãy quán sát về nó để
thấu rõ bản chất của nó, rồi chuyên tâm cầu sinh
Tây phương. Đây là phương pháp tuyệt diệu nhất.
Hành giả quán sát thế gian, quán sát sự vô
thường giả ảo và khổ đau của tất cả mọi thứ danh
lợi tình cảm và sự vật trên thế gian, quán sát
sự ràng buộc của thời gian, sự khổ đau trong
vòng sinh tử. Quán sát sự điên đảo thấp thỏi
ràng buộc ngu si và đau khổ khi còn sống với tâm
ái dục, quán sát sự thanh thoát, an lạc, sáng
ngời, cao quý khi đoạn dứt ái dục. Bằng sự quan
sát chân thật, rõ ràng sâu xa, hành giả sẽ không
còn mù mờ về bản chất của ái dục và thế gian.
Hành giả sẽ mong muốn xả ly thế gian và dũng
mãnh đoạn trừ ái dục, tức đã chặt đứt cội gốc
của ái dục. Vì biết rõ bản chất và tướng trạng ô
nhiễm của ái dục thì không bị nó lừa gạt, lôi
cuốn, thấy nó đưa đến nhiễm ô ràng buộc, đau khổ
và u tối thì sẵn sàng từ bỏ.
Hành giả không nên đè ép cố quên khi thấy mình
khởi sinh ái dục mà phải mạnh dạn đối đầu quán
sát tường tận nó để đoạn trừ nó. Vì các vấn đề
do hành giả cố quên chỉ vô ích trong khi tâm vẫn
thấy thích thú hay đau khổ vì nó. Vì các vấn đề
do hành giả cố quên chưa giải quyết sẽ dồn chứa
lại nơi tâm, lâu ngày trở nên mạnh mẽ. Một ngày
nào đó đủ duyên, chúng sẽ bừng dậy. Lúc ấy, hành
giả không thể tự chủ được, hoặc chúng cứ âm thầm
phá hoại tâm thức hành giả khiến trở nên cuồng
si u tối. Một tâm niệm ham muốn, khao khát tiềm
tàng lâu ngày, một ý tưởng yêu thương ẩn chứa
nhiều tháng năm do sự chèn ép cố quên không chịu
quan sát để phá vỡ, đều là mối nguy hại vô cùng.
Đồng thời với việc quan sát ái dục, hành giả cần
thường xuyên khởi tâm nguyện cầu sinh Tây phương
và tập lối sống không trụ trước, không cố định ở
một cảnh, không nương mãi một duyên, không thân
không hậu riêng ai, sẵn lòng buông xả những gì
mình thích quý, cũng không nên cố thủ ham muốn
cái dở xấu, vì ham muốn yêu tiếc vật tốt hay xấu
cũng đều là ái dục cả.
Khi đã thấu suốt ái dục và thế gian rồi, tâm
hành giả sẽ bình tĩnh, sáng suốt, tự chủ trước
các cảnh duyên, không cho say đắm với tất cả
người hay vật nào. Nhìn mọi thứ, hành giả đều
thấy trong đó có mầm khổ đau, ràng buộc, vô
thường, u tối sinh tử, trầm luân và hành giả
cũng thấy mọi khổ đau của mình và của người, đều
có thể trong mọi lúc, mọi nơi luôn luôn nguyện
cầu sinh về Tây phương, không nghĩ tưởng gì nữa.
Nên nhớ, khi chưa thấu triệt ái dục, tâm còn
quay cồng với những ham muốn tiếc thương thì còn
chướng ngại lớn trong việc tu hành; dù có cố
gắng nguyện cầu sinh về Tây phương, cũng khó
tránh khỏi bị tâm ái dục ấy làm đình trệ gián
đoạn, vì muốn về Tây phương mà cứ nắm cả Ta bà
thì làm sao về Tây phương được.
Cũng như muốn kéo cây cho nghiêng về một phía mà
cứ để gốc rễ bám cứng vào đất thì làm sao kéo
được. Quan sát thấy rõ ái dục để khai phát tâm
xả ly thế gian tức là chặt đứt các rễ cây ấy
vậy. Có sợ Ta bà mới thật sự thích Tịnh độ, có
chán thế gian mới thành tâm cầu về Tây phương.
Tuy nhiên, lúc quan sát ái dục vẫn luôn luôn
nguyện sinh Tây phương để gieo trồng sâu hạt
giống vãng sinh, đồng thời cũng để trợ giúp hành
giả buông xả sự đắm trước thế gian. Vì tuy quán
sát rõ ái dục, tâm có thể phát sinh xả ly, nhưng
do nghiệp ô nhiễm của hành giả nhiều đời huân
tập sâu dày và nghị lực của hành giả còn yếm
kém, hành giả vẫn còn cảm thấy sung sướng khi
tiếp xúc với ái dục. Mặc dù lý trí thì muốn xả
bỏ nhưng thói quen vẫn muốn tìm cầu nắm bắt, vả
lại cuộc đời luôn có các duyên khiến nghiệp ái
dục tăng trưởng lấn áp cả lý trí. Do đó, song
song với sự quán sát để xả ly ái, rất cần có chí
nguyện vãng sinh cầu giải thoát để giúp hành giả
đủ tâm lực dứt khoát thế gian đoạn trừ ái dục.
Nguyện vãng sinh, hành giả phải khởi nguyện liên
tục giống như niệm Phật. Hành giả có thể khởi
nguyện như thế này:
“Nam Mô A Di Đà Phật
Con nguyện sinh về Tây phương Cực lạc
Xin Phật từ bi đến tiếp độ con”.
Hoặc nguyện theo bài kệ:
“Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sinh
Cuối xin đức từ bi tiếp độ”
Hoặc niệm theo các bài sám văn của chư Tổ soạn.
Lời nguyện cốt yếu càng đơn giản, càng hướng
mạnh mẽ về Tây phương càng tốt.
Với các lời nguyện như thế, hành giả luôn luôn
khởi phát nơi tâm, khiến nó ngày càng thấm sâu
vào tiềm thức và mạnh mẽ không thay đổi. Một lời
nguyền duy nhất như thần chú bất động, hành giả
sẽ rèn được tâm vãng sinh kiên cố giống như cây
đã nghiêng hẳn về một hướng. Tâm nguyện vững
chắc như vậy đã nghiêng về một hướng rồi thì
không còn lo bị thế gian ràng buộc. Dù mai kia
ngọn lửa vô thường nào thổi lên, cây tâm linh
cũng chỉ ngã về phía Tây.
Bất cứ trong hoàn cảnh nào, gặp đối tượng gì
cũng chỉ một câu nguyện. Lúc này hành giả không
nên bận tâm những vấn đề nào khác. Hãy phó mặc
cho tất cả nhân duyên định đoạt. Dù cảnh chướng
duyên hay thuận duyên cũng không lo nghĩ. Biết
mình nhiều nghiệp chướng và kém phước cũng không
nên lo sợ tìm cầu làm các việc để tránh nghiệp
hay tạo thêm phước. Phải biết rằng nghiệp quả
không thể tránh, hãy bình thản đón nhận, có điều
không gây thêm nghiệp chướng nữa mà thôi, vì
phải tin tưởng hoàn toàn rằng tâm thệ nguyện này
vẫn đủ năng lực giúp hành giả vượt qua mọi dòng
nghiệp thế gian.
Ngay cả các việc phước thiện, nếu do nhân duyên
đưa đến thì sẵn lòng không từ khước, nhưng hành
giả giải thoát không nên chủ tâm tìm việc để
làm, vì tất cả đều là thế gian hữu lậu. Phước vô
lậu và tâm giải thoát ở giai đoạn trước, hành
giả có thể chuyển lo làm phước để nuôi lớn thiện
căn phá trừ ác nghiệp. Nay ở giai đoạn này đặt
nặng việc giải thoát, mọi việc lành đều làm với
tính cách từ bi tế độ thuận theo nhân duyên,
hành giả không làm vì tham muốn phước lạc và dù
làm việc gì cũng luôn khởi niệm cầu sinh về Tây
phương không gián đoạn. Khởi niệm đến khi nào ở
mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, tâm hồn chỉ
biết có Tây phương. Hướng về người cũng chỉ biết
có Tây phương, không còn thích muốn gì nữa,
chẳng chán ghét gì nữa. Tâm trong lành với ý
niệm Tây phương.
Trong giai đoạn này, hành giả có thể thấy mình
còn phan duyên động niệm, tâm thức chưa sáng
trong tĩnh lặng, xác thân còn khởi động dục
nhiễm. Hành giả không nên quan tâm lo nghĩ về
những vấn đề đó, phải biết mình đang thực hành
trong giai đoạn rèn chí giải thoát, chưa phải
lúc chuyên tu định huệ giải thoát cứu cánh. Do
đó, hành giả không nên sợ hãi, lo lắng làm dao
động việc tu tập hiện tại. Nếp sống xả ly thế
gian, tâm hồn không đắm say ái dục, luôn luôn
hướng về Tây phương là cốt yếu của giai đoạn
này. Cố gắng nguyện cầu không ngừng đến khi tâm
hồn trở nên bình thản với thế gian, không còn
biết ghét thương ham muốn, chỉ có Tây phương là
lẽ sống, là nguồn hạnh phúc của cuộc đời. Như
thế là thành tựu được giai đoạn thứ hai trên con
đường về đến Tây phương này.
Từ đây, hành giả có thể an tâm với thánh đạo
giải thoát. Niềm an lạc thanh tịnh đã bao trùm
cuộc sống hành giả. Hành giả có thể tiến từng
bước vững chắc trở về với thanh cảnh giác ngộ
tột cùng. Nhờ sự quán xét tường tận ái dục, hành
giả có thể tự chủ trước tình cảm, không đắm
luyến mặc dù còn rung động trước nó. Người xuất
gia không còn sự mê đắm trong vòng tục lụy. Nhờ
luôn luôn nguyện sinh Tây phương, chí hướng ngày
càng vững mạnh ăn sâu nơi tâm tưởng, con đường
Tây phương được thông suốt, hành giả chắc chắn
sẽ được vãng sinh.
Chú ý, ở giai đoạn này hành giả vẫn niệm Phật
theo thời khóa hoặc thường niệm nhưng chú trọng
việc cầu vãng sinh. Có thể chỉ sau vài câu Phật
hiệu thì khởi kỳ một lời nguyện và cứ thế hành
trì mãi. Ngay ở giai đoạn đầu cũng vậy, cũng vẫn
niệm Phật và cầu sinh Tây phương theo thời khóa
hoặc thỉnh thoảng khởi tâm niệm Phật cầu nguyện
trong các sinh hoạt bình thường, có điều ở giai
đoạn đầu thì niệm nguyện để cho tâm được trong
lành thuần thiện và không cần chuyên nhất.
Hành giả không nên vì ham thích định tâm hay
lười khởi niệm mà bỏ qua hoặc lơ là việc nguyện
cầu này. Bỏ qua việc nguyện sinh Tây phương cho
dù hành giả có chuyên tâm niệm Phật thì cũng khó
được vãng sinh. Vì chỉ chuyên tâm niệm Phật, lúc
niệm Phật tâm tuy thanh tịnh, quên các duyên
ngoài, nhưng tư tưởng ái dục còn mạnh, chí giải
thoát còn yếu, sự chuyên niệm ấy cũng khó bền bỉ
khi tâm ái dục khởi sinh. Hành giả để gián đoạn
việc dụng công và chạy theo ngoại cảnh, hoặc
biến việc niệm Phật thành một phương tiện để
thành tựu ý tưởng ái dục. Hoặc niệm Phật mà khởi
niệm ham thích làm vua, làm quan hay sinh cõi
trời này, cõi nước kia. Như vậy, việc niệm Phật
trở thành phương tiện để tạo phước hữu lậu thế
gian. Đây chính là nguyên nhân làm biết bao
người chuyên tu niệm Phật vẫn bị luân hồi. Giống
như cái cây không kéo nghiêng hẳn về một phía
tốt, cứ để nó nghiêng theo hướng xấu mà nuôi cho
cây cao lớn; gặp phải ngọn gió vô thường bật
gốc, nó sẽ ngã theo chiều hướng xấu của nó.
Mặc dầu có tha lực tiếp dẫn, nhưng tâm hành giả
chẳng hướng về Tây phương thì tha lực này cũng
không làm sao tiếp dẫn được, vì tha lực của chư
Phật đây chẳng phải là loại thần lực thế gian
của các quỷ thần. Tha lực này bình đẳng, không
vọng động, phát xuất từ một linh thể bên ngoài,
mà nó khởi nguồn từ tâm ý hành giả, nó tùy thuộc
vào tâm lực nguyện cầu của hành giả mà mạnh hay
yếu, giống như tiếng vang nơi hang núi. Do đó,
hành giả càng khởi tâm nguyện sâu xa thì tha lực
càng trở nên mạnh mẽ; còn ngược lại, ít khởi
nguyện thì đương nhiên bị yếu kém, yếu kém thì
không đưa hành giả về Tây phương được. Chính vì
lẽ đó mà có chỗ nói “tha lực tùy thuộc tự lực”
hay “tha lực cũng là tự lực”.
III. Giai đoạn chuyên tu giải thoát
Đây là giai đoạn cuối cùng của con đường Tịnh
độ. Hành giả có thể chứng nghiệm Tây phương ngay
nơi tâm hồn mình, Tịnh độ trong cuộc sống của
mình.
Đã tôi luyện vững chắc tâm giải thoát về Tây
phương không còn luyến tiếc thế gian, bây giờ
hành giả có thể buông các duyên bên ngoài thôi
quán sát, chỉ chuyên tâm niệm Phật không gián
đoạn.
Đi niệm Phật, ngồi niệm Phật, đứng niệm Phật,
làm việc cũng niệm Phật, nói năng cũng niệm
Phật, …Tất cả đều niệm Phật, chỉ có niệm Phật,
không cần nghĩ biết mình, người, vui, khổ, hơn
kém, thân sơ … Ta bà, Tây phương gì cũng mặc, cứ
A Di Đà Phật. Một cành cây một ngọn cỏ đều A Di
Đà Phật. Chẳng xét nghĩ mà cứ như ngây như khờ
với A Di Đà Phật.
Ban đầu hành giả niệm ra tiếng, nghe tiếng rành
rõ, niệm liên tục không cần đếm mấy câu, chỉ có
biết âm thanh A Di Đà Phật, vọng tưởng có sinh
cũng đừng quan tâm, chỉ chú ý vào câu A Di Đà
Phật. Bên ngoài ồn náo hay yên tịnh gì cũng mặc,
cứ lo niệm A Di Đà Phật, niệm đến khi thuần
thục, nghe rõ ràng, không bỏ sót một Phật hiệu
nào, không duyên theo cảnh ngoài, tâm thích thú
với danh hiệu đơn độc A Di Đà Phật do mình khởi
phát.
Bây giờ hành giả tập lặng lẽ niệm Phật nơi tâm,
nghe rõ từng âm thanh do tâm khởi niệm. Lúc
khởi, lúc ngưng, lúc có tiếng, lúc yên lặng đều
nhận biết. Dù nghe thấy biết sự vật chung quanh
tâm cũng vẫn khởi niệm luôn luôn không cho gián
đoạn, mới còn gắng công, dần dần về sau không
gắng công khởi niệm nữa chỉ lắng nghe câu A Di
Đà Phật do tâm tự phát ra, khi tâm không phát ra
được nữa thì hành giả dụng công niệm trở lại, có
thể niệm ra tiếng huân tập Phật hiệu vào tâm.
Sau đó lại thả cho tâm tự niệm và chỉ lắng nghe.
Cứ như vậy thực hành cho đến khi sự lắng nghe
thuần thục, luôn luôn rõ biết không sót các Phật
hiệu nơi tâm và đối trước tất cả cảnh duyên,
trong tâm vẫn đều đặn tuôn trào Phật hiệu một
cách tự nhiên. Khi khởi khi ngưng cũng đều biết
rõ. Tâm bên trong và cảnh bên ngoài, hành giả
không gì không nhận biết.
Lúc ấy, hành giả có thể cảm thấy tròng mắt mình
như đứng lại nhưng mát mẻ, tâm thức trở nên
trong sáng bình lặng giống như tấm gương trong
suốt cả hai mặt, trong ngoài đều rõ bóng. Tâm
tuy trong sáng nhưng hồng danh Phật vẫn hiển
hiện đều đặn tự nhiên. Trong ngần tĩnh lặng,
không khởi niệm mà câu niệm vẫn thường hằng, đây
là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”.
An trú trạng thái này, hành giả sẽ cảm thấy an
lạc vô cùng, không cần biết gì là ưu khổ. Thế
gian dường như là thánh cảnh trang nghiêm. Nhìn
ra ngoài, trước mặt mọi vật đều sáng đẹp lạ
thường, tất cả dường như đồng nhất với nhau, đều
là hình ảnh của một bức tranh tuyệt mỹ sống
động. Cái gì cũng đẹp, cây khô cũng đẹp, cây
tươi cũng đẹp, đống rác cũng đẹp, cái khăn cũng
đẹp, miếng giẻ lau cũng đẹp… tất cả đều là hoạt
cảnh vĩ đại. Tất cả đến một cách rõ ràng trước
mắt và đi qua không lưu lại giấu vết gì nơi tâm
thức lặng trong, an bình của hành giả. Soi lại
mình, hành giả có thể trực nhận bằng chính ánh
mắt mình, mình đang trong cảnh mộng. Xác thân
này là một bóng hình sinh động trong hoạt cảnh
trang nghiêm mộng mị. Chú ý mọi hành động, cử
chỉ, lời nói của nó, hành giả cảm thấy như mình
đang xem cuốn phim hiện thực, trong đó mình là
kẻ đóng tuồng với hình thức con người. Nếu đã
từng suy cứu về bản ngã, ngay tâm trạng này,
hành giả có thể thực chứng “ngủ uẩn này không
phải là mình, mình chẳng thật là nam, là nữ,
chẳng thật là người, là vật, chẳng thật là gì cả
mà cũng là tất cả”. Hành giả không còn chấp ngã,
không dừng trụ ở cảnh trạng ấy, hành giả tiếp
tục dụng công. Hành giả phản văn sâu xa hơn,
lắng nghe câu Phật hiệu trong tâm chuyên chú
hơn. Từ chỗ còn nghe biết âm thanh bên ngoài,
cuối cùng không nghe gì bên ngoài nữa, tâm thức
hoàn toàn chuyên chú vào hồng danh Phật trong
tâm. Lúc niệm Phật, mọi âm thanh bên ngoài dường
như không có đối với hành giả vì nhĩ thức đã
quay vào trong, ý thức cũng tập trung mạnh mẽ
vào âm thanh của tâm. Thường xuyên thuần thục
công phu như thế, hành giả đạt đến chỗ quên
cảnh, quên thân. Tâm thức trở thành một chuỗi
Phật hiệu không đầu mối, không cùng tận, là một
dòng niệm A Di Đà Phật không gián đoạn. Sắc,
thinh, hương, vị, xúc bên ngoài không còn hiện
hữu đối với hành giả, thời gian, không gian như
tiêu mất đối với hành giả. Chìm đắm hoàn toàn
với ý niệm A Di Đà Phật, không một tâm niệm nào
khác. Đây là nhất tâm bất loạn, trạng
thái nhất tâm này, hành giả chỉ đạt được khi
thân tâm ở trong tư thế bình tịnh bất động tĩnh
tọa niệm Phật, hoặc đứng yên, hoặc nằm lặng lẽ
đều có thể thành tựu trạng thái này. Đạt được
mức độ này, ngũ quan nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân
của hành giả tinh tế lạ thường, tâm niệm tư
tưởng hành giả trở nên rất mạnh mẽ và có sức cảm
ứng kỳ diệu. Hành giả tự chủ được những xao động
của thân tâm khi đối diện với ngoại cảnh. Một ý
nghĩ thoáng sinh sẽ có sức tác động đến chư
Thiên, quỷ thần. Ở đây, hành giả đã đủ khả năng
vãng sinh với ý niệm và tâm thuần tịnh A Di Đà
Phật của mình.
Tuy vậy, hành giả hãy tiếp tục dụng công để đạt
đến chỗ trọn vẹn. Bấy giờ, hành giả chuyển từ
tâm niệm thô A Di Đà trở thành vi tế nhiệm nhặt
và luôn luôn phản chiếu nơi tâm. Tâm niệm vi tế
A Di Đà dần dần nhưng không còn âm thanh và lan
tỏa hoàn toàn vào tâm thức theo sự trong sáng
bình tĩnh.Vận dụng miên mật sự phản chiếu, trí
giác của hành giả cũng dần dần trở nên vi tế
bình tịnh và hướng vào tâm một cách trọn vẹn.
Hành giả công phu tinh tiến, tâm niệm vi tế A Di
Đà Phật sẽ hòa hợp với sự phản chiếu vi tế bình
tịnh ấy. Hành giả dần dần đi vào trạng thái
thuần tịnh trong sáng thanh thoát kỳ diệu, ngoại
cảnh thân tâm, thời gian không gian đều bặt dứt,
mọi cảm thọ tư tưởng đều diệt tận. Đây là
niệm Phật tam muội.
An trú chánh định này, tâm sinh lý của hành giả
được cải đổi toàn bộ hoàn toàn thanh khiết, đồng
thời khai thác các năng lực trí tuệ siêu phàm.
Vận dụng trí lực này để quan sát, hành giả sẽ
đạt các biện tài vô ngại, thần thông thấu suốt
tất cả các pháp; gột rửa hoàn toàn các chấp
trước nhiễm ô. Từ đây, hành giả có thể thành tựu
thánh đạo giải thoát và độ sinh một cách tự tại.
Hành giả sẵn sàng trở về với thánh cảnh Tây
phương bất cứ lúc nào hoặc khi báo thân này mãn
hạn. Hành giả sẽ hóa sinh thượng phẩm về Thường
Tịch Quang Tịnh Độ.
Nên biết trong quá trình từ động sang tịnh, từ
thô vào tế, thân tâm hành giả cũng phải được vận
dụng hòa hợp. Khi công phu hành giả có thể gặp
những hiện tượng lạ. Những hiện tượng xuất hiện
ở trong tâm, nơi xác thân hoặc ở ngoài cảnh, tốt
hoặc xấu, đây là do tâm sinh lý của hành giả
biến đổi mà ra hoặc do hành giả khởi vọng hay
dụng công bất hòa mà có. Hành giả không nên quan
tâm chấp trước hoặc vui theo hoặc sợ hãi, chỉ
nên nhiếp tâm vào A Di Đà Phật, mặc kệ tất cả,
có thể điều chỉnh sự dụng tâm cho điều hòa, khởi
niệm đều đặn thong thả, lắng nghe hay quan sát
một cách tự nhiên không cố sức. Bình thản dụng
công với chí khí buông xả thân mạng, mọi thứ đều
sẽ an lành.
Trên đây là sơ lược ba giai đoạn chính trong
tiến tình tu tập, đưa hành giả từ phàm nhân đầy
nhiễm ô phiền não trở thành thánh nhân thuần
tịnh thoát trần. Nếu y theo đây mà thực hiện
công phu tu tập thì hành giả ít gặp chướng duyên
trong lúc dụng công, dễ dàng vượt qua khi có
chướng ngại và nhanh chóng đi đến đỉnh giải
thoát, không luống uổng một đời người.
Ba giai đoạn với những việc làm tuy đơn giản
nhưng rất quan trọng và thực tế áp dụng không
phải là dễ dàng, hành giả cần phải sáng suốt
biết rõ tường tận và khéo léo thực hành.
Đối với các nghiệp chướng trong tâm khởi phát,
các gió nghiệp báo bên ngoài thổi tới, hành giả
cũng phải thông suốt và vượt qua. Tùy mỗi người,
mỗi thời điểm mà có các nghiệp chướng khác nhau
thô hoặc tế. Nghiệp chướng nào cũng có thể làm
đạo tâm hành giả lay chuyển. Do đó, hành giả
phải có một niềm tin kiên cố và thâm sâu vào
pháp môn mình đang tu tập này, nó sẽ đủ năng lực
giúp hành giả vượt qua tất cả. Từ đó, tinh tiến
công phu không thay đổi, không lo sợ. Xác định
mình đang tu trong giai đoạn nào, hành giả có
thể căn cứ theo đó mà tùy tiện uyển chuyển đối
tiếp các duyên để tu tập. Tùy duyên mà không đổi
chí. Giai đoạn tu thiện thì phải chấp nhận điều
gì, phải dứt khoát việc gì. Giai đoạn tu giải
thoát thì xả bỏ việc gì, phải thành tựu điều gì.
Biết rõ như thế mà thủ xả thì không còn lo ngại.
Bằng không rõ thủ xả lộn lạo sẽ làm chướng ngại
cho việc tu tiến, không đến được mục đích cứu
cánh. Đây là chỗ nói bắt chước vẽ cọp, vẽ không
ra cọp mà thành ra chó; bắt chước làm thánh,
không trở thành thánh mà trở thành quỷ… Hành giả
cần phải lưu ý kinh điển, là kim chỉ nam dẫn
lối, nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ giúp hành giả rất
nhiều trên đường tu tập. Nhưng cần phải biết ý
nghĩa và đối tượng của mỗi lời dạy. Đừng thấy
tán dương Bồ tát rồi bắt chước làm theo các việc
của Bồ tát. Đừng thấy ca ngợi cư sĩ rồi ham cầu
làm các việc của cư sĩ. Phải biết chỗ đứng của
mình, mình đang ở mức độ nào, hạnh nào cần tu,
hạnh nào chưa thể làm, hạnh nào không cần thiết
phải làm… Rõ như thế thì không uổng phí tâm sức
và không bị thất bại.
Hành giả nên biết đường đời nẻo đạo đều có rất
nhiều thăng trầm. Đạo tâm tu hành cũng vẫn
thường như thế, có lúc hứng khởi tu, có lúc lại
lơ là buông trôi không gắng sức. Đó cũng là biểu
hiện nhân duyên thiện căn phước báo của hành
giả. Hành giả cần tỉnh giác biết rõ từng chặn
đường tâm hồn ấy của mình, đồng thời nương vào
duyên mà hành đạo. Không nên cố chấp một hình
thức nào, miễn là làm sao giữ được đạo tâm luôn
luôn mạnh mẽ, không biến đổi nhạt phai. Lúc đó,
thể hiện thì hiện, khi cần ẩn thì ẩn, nương vào
duyên nào mới dễ tu thì nương vào duyên ấy, gần
duyên gì bất lợi thì đừng gần, gặp phải chướng
duyên tránh được thì tránh, tránh không được thì
bình thản chấp nhận, thường nghĩ đến đạo pháp và
mục đích tu hành để duy trì đạo tâm. Như thấy có
học mới ham tu thì hãy học, nếu buông các duyên
tu mới tiến thì buông các duyên. Gần huynh đệ
mới tinh tấn thì cứ gần huynh đệ, ở một mình tâm
mới thanh tịnh thì hãy sống một mình.
Tuy vậy, dù sống trong môi trường làm đạo tâm
suy thoái mà không thể thoát ra được, hành giả
cần nên thường xuyên tưởng niệm mục đích tu hành
của mình, các gương giải thoát của người xưa và
nhất là giữ vững chánh kiến chờ đợi duyên lành
thuận đạo. Giống như đi đường, con đường có đoạn
khô sạch, có đoạn bùn lầy, có đoạn đá sỏi … liên
tiếp nối nhau hết đoạn này đến đoạn khác không
đồng nhất. Người đi lúc nào cũng theo chỗ khô
sạch mà đi, nhưng bất đắc dĩ phải lội bùn thì cứ
lội qua bùn để tiến tới, không ngại sợ, có thể
tiến mãi đến mục tiêu cuối cùng. Nên nhớ, tất cả
đều có lúc phải hết. Do đó, gặp vui không ham,
gặp khổ không sợ. Hành giả hãy vượt qua, vượt
qua tất cả để đến bờ giải thoát. Tất cả chung
cùng đều giải thoát về cõi Tây phương.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TỊNH TỌA NIỆM PHẬT
Trong lúc thực hành niệm Phật, nhất là khi tịnh
tọa hành giả có thể thường gặp những hiện tượng:
hôn trầm, tán loạn, vô ký, phan duyên. Trường
hợp này hành giả cũng cần phải biết cách đối trị
mới dễ dàng khắc phục. Nếu không biết cách thì
khó hàng phục được các hiện tượng ấy, lâu ngày
có thể khiến hành giả chán sợ, lười dụng công.
1. Về hôn trầm: Tức là tâm mờ mịt như buồn ngủ,
có hai loại:
* Tâm thức tự nhiên lờ mờ, còn biết niệm Phật
nhưng không sáng tỉnh, thỉnh thoảng đầu bị gục.
Đây là hôn trầm do khí hỏa hư trong người thăng
lên lấn áp tinh thần. Hành giả nên niệm ra tiếng
liên tục và hơi nhanh thì trị được. Đó là dùng
sự cử động của bên ngoài để điều hòa giải trừ
khí hư.
* Tâm có vẻ hơi mỏi, khởi niệm gượng gạo, thỉnh
thoảng bị ngáp hơi, ngồi lâu muốn ngủ, trạng
thái này diễn biến càng lúc càng nhiều. Đây là
hôn trầm do thiếu hăng hái tinh tấn. Hành giả
hãy mặc nhiên và niệm nhanh (có thể động môi) để
kích thích tinh thần. Nhờ bắt tâm khởi niệm
nhanh nên tinh thần mới phấn chấn tươi tỉnh.
2. Về tán loạn: Cũng có hai loại:
* Tâm nghĩ ngợi nhớ tưởng lung tung, quên việc
niệm Phật hiện tại, tinh thần mệt mỏi, không tự
chủ, không tỉnh minh, muốn xả công phu. Đây là
tán loạn do tâm nóng nảy phát sinh. Nguyên nhân
là khi niệm Phật, hành giả lại niệm gấp gấp nên
ngồi lâu tim nóng mới bị tán loạn. Gặp trường
hợp này, hành giả nên niệm ra tiếng một cách
chậm rãi thong thả, có thể ngân nga. Như thế tâm
sẽ trở nên dịu mát và an bình.
* Nếu tinh thần vẫn an bình nhưng tâm thức thỉnh
thoảng lại khởi nhớ việc này việc nọ. Mặc dù
biết được vọng niệm, nhưng không tránh khỏi sự
duyên theo hoặc khó dừng nó. Và mỗi khi vọng
niệm, thì ngưng niệm Phật. Đây là do hành giả
thiếu chủ tâm, không tập trung vào câu niệm Phật
nên thói quen dịch chuyển của tâm thức mới có
dịp khởi động. Hành giả chỉ cần tập trung lắng
nghe tâm niệm, nghe từng tiếng từng câu rõ ràng
thì hàng phục được.
3. Về phan duyên và vô ký:
* Phan duyên:
là thói quen âm ưa rong ruổi bên ngoài, cũng là
một loại động loạn, nhưng có điều nó lặng lẽ,
như ngồi niệm Phật mà tai lại lắng nghe người
ngoài nói chuyện hoặc mắt theo dõi cảnh vật
chung quanh… tức là năm thức duyên theo năm trần
cảnh. Đây là nguyên nhân làm công phu bị gián
đoạn và mất chánh niệm. Hành giả không biết,
tưởng mình không vọng niệm rồi chẳng lo đoạn
trừ, lâu ngày thành thói quen nặng, ngồi niệm
Phật mà chỉ huân tập vào tâm những chuyện vô ích
bên ngoài, tu nhiều mà tâm không định.
* Vô ký:
là một thái cực đối lập với phan duyên, tức là
tâm thức biến mất, hành giả ngồi niệm Phật đến
một lúc tự nhiên không nhận biết gì cả, quên
niệm Phật, như người chết có khi trải qua hàng
giờ. Nếu không biết lại cho là được định tâm,
đắm thích theo nó khiến uổng phí ngày giờ gieo
trồng chủng tử gỗ đá vô tri.
Để đối trị tâm phan duyên và vô ký này, hành giả
có thể khởi niệm Phật rõ ràng từng niệm ba câu
hay năm câu, mười câu cho liên tiếp, rồi ngừng
khoảng hai giây, sau đó khởi niệm trở lại ba hay
năm, mười câu liên tiếp nữa, rồi lại ngừng,
ngừng rồi lại niệm. Cứ như thế mà hành trì niệm
Phật, vừa niệm vừa lắng nghe kiểm soát rõ ràng.
Thực hành như vậy tâm sẽ tập trung mạnh mẽ.
Cần biết thêm là trừ tâm phan duyên thì niệm ra
tiếng, còn đoạn vô ký thì niệm thầm. Dù niệm ra
tiếng hay niệm thầm, đều kiểm soát ghi nhận rõ
ràng từng đợt mấy câu. Sở dĩ trường hợp phan
duyên đuổi theo cảnh, thì cảnh do mình để kéo về
mới kết quả và đoạn tâm vô ký là ý thức chìm
mất, vì vô ký là ý thức hay chìm mất, nên bắt ý
thức làm việc và kiểm soát nó thì nó sẽ không
mất nữa.
Đó là khái quát cách đối trị các bệnh hôn trầm,
tán loạn, phan duyên và vô ký. Tuy nhiên, hành
giả cũng cần biết khi cơ thể mệt mỏi suy kém do
làm việc nhiều hoặc bệnh tật cũng thường gây ra
các chứng bệnh ấy. Trường hợp này, hành giả phải
nghỉ ngơi để bồi dưỡng cho thân được điều hòa,
không nên gượng ép công phu vô ích.
Lại nữa, khi hành giả niệm Phật đã thành thạo,
tiếng Phật không mất mà vẫn phát động đều đặn,
tâm an bình, tỉnh táo, nghe biết rõ ràng. Nơi
tâm tự nhiên sinh khởi các ý tưởng vọng động kèm
theo câu Phật hiệu của hành giả. Đây là do tâm
của hành giả đạt đến chỗ bình lặng, làm lưu xuất
các chủng tử trong tạng thức. Trường hợp này
hành giả không cần quan tâm, cứ chú ý câu Phật
hiệu của mình. Các chủng tử được lưu xuất ấy lần
lần bặt dứt, sẽ trở lại sự trong sáng tự nhiên
nơi tâm.
Điều cần nhớ nữa là khi các vọng niệm khởi sinh,
hành giả đã cố gắng dụng công niệm Phật mà các
vọng ấy cứ gợi lên hoài có thể khiến hành giả
duyên theo, nhất là các vọng thuộc về nghiệp
nặng của mình. Mỗi người đều có nghiệp nặng của
mình, những vọng tưởng về các nghiệp ấy thường
rất khó trừ. Ví dụ: người nghiệp sâu nặng, ngồi
tu lại có các vọng về sự việc trái ý tổn hại
sinh ra. Các vọng này rất khó trừ vì nó khởi
động nghiệp của các hành giả, khiến hành giả khó
bình tâm bỏ qua. Hoặc người nghiệp ái nặng, các
vọng tưởng về người thân xa lìa, chết chóc, tai
nạn… cũng thế. Đối với các vọng này, hành giả
không nên gượng tránh vô ích, vì chúng sẽ không
dứt khi chưa được giải quyết. Cho nên, hành giả
phải suy xét về nhân duyên, nhân quả, từ bi, hỷ
xả, vô ngã, vô thường… tùy theo mỗi loại mà quán
sát các pháp thích hợp. Vọng về sân thì quán từ
bi, hỷ xả, nghiệp báo; vọng về ái thì quán sát
bất tịnh, vô thường, vô ngã… Như thế mới chặt
được gốc của các vọng, các vọng sẽ tự tiêu diệt.
Sau đó hành giả trở lại niệm Phật như cũ. Nhờ
quán sát như thế, nghiệp của hành giả từ từ nhẹ
bớt. Về sau các vọng này có khởi lên, nếu hành
giả vẫn tỉnh giác biết rõ nó vô lý và không bị
động vì nó, thì không cần quan sát nữa, cứ tiếp
tục niệm Phật, không cần quan tâm. Vì nó giống
như một cái cây đã bị đốn ngã, tuy còn dư tàn
các lá mầm nhưng chẳng có gì nguy hiểm, không
bao lâu chúng sẽ chết hẳn.
Đôi khi các vọng thuộc về hằng ngày như suy
tính, xét nét, lo lắng,… Hành giả mặc dù nhận
biết được chúng nhưng tâm lại không muốn xả trừ,
mà cố tưởng đuổi theo nghĩ tưởng. Rõ mình muốn
đuổi theo như thế, hành giả hãy dũng mãnh cảnh
sách rằng “đang niệm Phật thì lo niệm Phật, làm
việc gì chỉ nghĩ việc ấy. Mọi thứ đều có nhân
duyên, hãy phó mặc cho nhân duyên của nó”. Có
như vậy mới trừ được thói quen phóng tâm nắm níu
các duyên ấy.
Hành giả nếu khéo điều tâm, ngay từ lúc bắt đầu
vào tịnh tọa cho đến khi cuối thời công phu, tâm
luôn luôn tươi vui hăng hái, thích thú tập trung
thì không vướng phải các bệnh hôn trầm, tán
loạn,… trên. Niệm từng câu lắng nghe rõ ràng,
say sưa, thích thú với các âm thanh Phật hiệu.
Ấy là phương pháp thần diệu giúp hành giả quên
hết tất cả cảnh duyên bên ngoài và mọi nỗi lo
phiền suy tính trong tâm.
Hành giả cũng nên biết, khi tâm đã có phần khó
tập trung bởi hôn trầm tán loạn thì cố gắng tập
thường xuyên lặng lẽ niệm Phật. Vì còn niệm ra
tiếng, tâm tất còn duyên ra bên ngoài, sức quán
chiếu nội tâm còn yếu và khi đối cảnh khó giữ
được câu niệm liên tục, không gián đoạn, lại hao
nhiều sức khỏe. Chỉ khi thường xuyên chăm chú
lắng nghe câu niệm nơi tâm, sự quán chiếu nội
tâm mới trở nên mạnh mẽ, đủ sức giúp hành giả
quên hoàn toàn ngoại cảnh, để đạt được chánh
định (tam muội) và giữ cho hành giả vẫn niệm
Phật không gián đoạn khi làm việc hay đối cảnh,
lại không tổn hao sức khỏe. Dĩ nhiên, lúc mới
chuyển từ to tiếng niệm sang mặc niệm, do sức
mặc niệm còn yếu, vọng tưởng có thể sinh khởi
nhiều. Hành giả không sợ hãi thối thất, cứ cố
gắng mặc niệm từng tiếng, lắng nghe rõ ràng hoặc
niệm từng chập liên tiếp vài câu rồi ngưng,
ngưng rồi niệm liên tiếp nữa… kiểm soát số câu
không quên. Như vậy lâu ngày, sức mặc niệm sẽ
mạnh.
Thực hành niệm Phật một cách đúng đắn như trên
tất được định tâm nhanh chóng, dễ dàng, ít tổn
tâm lực và sức khỏe hành giả niệm Phật, hãy tinh
tấn thực hành.
Nguyện tất cả chúng sinh
Đồng sanh Tây phương
Đồng thành Phật đạo.
ĐƯỜNG VỀ NHẤT TÂM
(Cảm tác sau khi thực nghiệm lại phương pháp
niệm Phật: kính tặng tất cả hành giả niệm Phật).
Hãy lắng nghe, hãy bình thản lắng nghe, lắng
nghe rõ ràng không bỏ sót, lắng nghe trong lòng
đang niệm Phật A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, …
Hành giả hãy lẳng lặng lắng nghe, bền bỉ lắng
nghe. Trong lòng niệm A Di Đà Phật như thế nào
mặc kệ, cứ lắng nghe đừng cố gắng làm gì cả,
lắng nghe A Di Đà Phật nơi tâm chẳng cần biết
bên ngoài.
Mắt khi nào phải nhắm thì nhắm, đừng kiềm, âm
thanh A Di Đà Phật có nhỏ, thây kệ, đừng cố gắng
niệm to. Nơi thân nơi tâm có cảm gì cứ tự nhiên.
Chỉ chăm chú lắng nghe, mặc tất cả, luôn luôn
lắng nghe, lắng nghe mải miết A Di Đà Phật nơi
tâm.
A Di Đà Phật dù có nhỏ, A Di Đà Phật dù có xa, A
Di Đà Phật dù có đi xa hút cũng vẫn cứ lắng nghe
âm thanh càng vi tế, sự lắng nghe càng tinh
tường. Rồi thì một âm cũng tròn đủ A Di Đà Phật,
không âm cũng tròn đủ A Di Đà Phật, một cái lấp
lánh của tâm cũng tròn đủ A Di Đà Phật, một cái
dao động vô hình cũng tròn đủ A Di Đà Phật, vẫn
lắng nghe rõ, biết rõ, thấy rõ nơi tâm như vậy.
Sẽ đến lúc toàn thể thân tâm tràn đầy thanh tịnh
vắng lặng, tâm thức là một khối kiên cố, không
một vọng tưởng nào xen được, đỉnh đầu dần dần
gom cứng và như bị xuyên thủng một cách an lạc,
A Di Đà Phật vẫn nghe rõ ràng. Sau cùng tất cả
tan vỡ, tâm hoàn toàn phẳng lặng, A Di Đà Phật
nhẹ nhàng thong thả đi qua, đi qua, như từng áng
mây bay qua bầu trời trong vắt không một chướng
ngại. Cái nghe bây giờ không còn gắng nữa vì đã
tự nhiên rồi. Tất cả an tịnh, thân tâm quên hết
rồi, sự sáng suốt và thanh tịnh bao trùm.
Hành giả hãy lắng nghe đi, thật kỳ diệu !
Hãy bền chí nhưng đừng trông mong, đừng gián
đoạn, gián đoạn không thành. Liên tục nửa giờ,
một giờ, hai ba giờ sẽ đến nhất tâm! Liên tục
không gián đoạn tôi nhận rõ. Đừng nghe A Di Đà
Phật bên ngoài, buông bỏ chuỗi, ngồi bình thường
an trú giữa không gian yên tịnh, niệm Phật trong
chánh niệm sẽ thành tựu !

|