Cư Sĩ
Tâm Minh - Lê Đình Thám
NGƯỜI
SÁNG LẬP GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
(1897 - 1969)
Cư sĩ Tâm Minh -
Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng
Phú Mỹ, tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam. Ông xuất thân trong một gia đình
quyền quý nhiều đời làm quan. Thân sinh là Binh
Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự Đức.
Cùng với anh là Y
sĩ Lê Đình Dương trực tiếp học chữ Nho với thân
phụ. Cả hai anh em điều tỏ ra thông minh xuất
chúng ngay từ thưở niên thiếu. Riêng ông từ nhỏ,
đã tỏ ra là người có năng khiếu văn chương thi
phú.
Trong những năm
theo học tại các trường Tiểu học, Trung học và
Đại học, ông đã chiếm được cảm tình cả thầy và
bạn. Luôn luôn giành thứ vị thủ khoa trong các
kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.
Ông tốt nghiệp Y
sĩ Đông Dương (đậu Thủ Khoa) tại Hà Nội năm 1916
và ông đậu Y khoa Bác Sĩ năm 1930, ngạch Pháp
quốc, tại Y khoa Đại học đường Hà Nội.
Khi ra trường với
danh hiệu Y sĩ, đúng lúc phong trào Duy Tân khởi
nghĩa bị thất bại, bào huynh Y sĩ Lê Đình Dương
bị Pháp tù đày tại Buôn Mê Thuột. Ông bị tình
nghi và luôn bị theo dõi. Từ năm 1916 đến năm
1923, ông được bổ nhiệm và làm tại các bệnh viện
Hội An, Bình Thuận, Sông Cầu, Quy Nhơn, Tuy Hòa.
Chính trong thời gian này, ông nghiên cứu thêm
về chí nguyện như trên, ông được thọ tam quy ngũ
giới với Hòa thượng Giác Tiên, pháp danh là Tâm
Minh, Pháp tự Chiêu Hải.
Năm 1929, ông thọ
học thêm với Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp
- Bình Định. Hòa Thượng chỉ đạo ông nghiên cứu
các bài giảng của Ngài Thái Hư Đại sư ở Trung
Hoa về cách thức tổ chức Phật giáo, và suy nghĩ
cải cách thế nào cho phù hợp với tình hình Phật
giáo nước nhà. Ông đã đề đạt ý kiến của mình lên
chư Hòa thượng: Quốc sư Phước Huệ, Giác Tiên,
Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết... và đã được
các Ngài chấp thuận.
Năm 1930, ông trở
ra Hà Nội thi bằng Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp. Khi
trở về, ông vừa học Phật vừa làm nghành y mà vẫn
vượt xa các bạn đồng học trong thời gian ấy.
Năm1932, Hội An
Nam Phật Học ra đời, do các vị Hòa thượng và ông
đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc
hoằng dương chánh pháp. Trụ sở hội đầu tiên đặt
ở chùa Trúc Lâm, sau đó là chùa Từ Đàm. Ông làm
Hội trưởng và các Hòa thượng trong Ban Chứng
minh là cố vấn cho Hội. Hội bắt đầu truyền đạo
với nhiều hình thức:
-
Thuyết
pháp hằng nửa tháng cho tín đồ nghe tại chùa Từ
Quang.
-
Mở trường
đào tạo Tăng tài cho Giáo hội sau này.
-
Mở thêm
các chi hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương
chánh pháp khắp các tỉnh.
- Thành
lập Thanh niên Đức dục (Phật học).
- Xuất
bản tờ báo Phật giáo (Nguyệt san Viên Âm).
- Thiết
lập các tòng lâm để chư Tăng tu học, và đào tạo
Tăng tài.
Từ năm 1930, bắt
đầu xuất hiện những bài báo viết của ông trên tờ
nguyệt san Viên Âm. Ông tự tay viết cả chuyện
ngắn (ký tên T. M.), truyện dài (ký tên Châu Hải)
và truyện hài hước (ký tên Ba Rảm).
Từ năm 1934-1945
là những năm hoàn chỉnh các tổ chức của Phật
giáo và hệ thống đào tạo Tăng tài, các lớp Phật
học cho thanh niên. Kết quả mà ông đã đóng góp
được trong những năm tháng ấy, vẫn mãi mãi được
ghi nhớ: Một thế hệ Tăng sĩ tài ba đã nở rộ, làm
nền tảng tuyên truyền phát huy chánh pháp, đoàn
kết Tăng Ni và Phật tử, bảo vệ Phật giáo trước
những khó khăn lúc bấy giờ. Chùa Từ Quang, nơi
làm giảng đường bước đầu để tuyên dương chánh
pháp cũng đã thấy bóng dáng của ông trong chiếc
áo dài màu đen và chiếc khăn đóng tươm tất thành
kính đảnh lễ chư Tăng trước khi bước lên Pháp
tòa để giảng kinh cho họ.
Năm 1946, cuộc
chiến tranh chống Pháp bùng nổ, dân chúng Huế
tản cư, ông cùng gia đình di tản về Quảng Nam.
Từ năm 1847 đến 1949 ông làm chủ Tịch Ủy ban
Hành chánh Kháng chiến miền Nam Trung bộ. Tại
liên khu V của vùng kháng chiến, ông tập họp một
số đoàn viên của đoàn Phật học Đức dục có mặt
trong vùng và thành lập tổ chức Phật giáo Dân
chủ mới tại Bồng Sơn- Bình Định.
Mùa hè năm 1949,
ông di cư ra Hà Nội. Tại đây ông được đề cử làm
Chủ tịch phong trào vận động Hòa Bình thế giới.
Năm 1956, ông và Hòa thượng Thích Trí Độ tham dự
phái đoàn sang dự đại hội Phật giáo Buddha
Jayanti tại Ấn Độ.
Năm 1961, toàn bộ
kinh Lăng Nghiêm mà ông đã dày công phiên dịch
và chú giải trong nhiều năm, đã được đăng trên
báo Viên Âm trước đây được ông hoàn tất và xuất
bản tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Sau đó, sách được
gia đình ông tái bản lưu hành rộng rãi ở miền
Nam.
Trong những năm ở
đất Bắc, ngoài giờ làm việc hành chánh, ông đến
chùa Quán Sứ để dịch kinh và giảng kinh, hướng
dẫn việc tu học giúp nhà chùa. Kết quả của những
năm tháng dày công quả vì đạo pháp và dân tộc ấy
còn được thể hiện qua các kinh sách uyên thâm
như:
1, Kinh Thủ Lăng
Nghiêm.
2, Luận Nhơn Minh.
3, Đại Thừa Khởi
Tín Luận.
4, Bát Thức Quy
Củ tụng.
5, Phật Học
thường thức.
6, Bát Nhã Tâm
Kinh.
7, Lịch sử Phật
giáo Việt Nam và Phật Tổ Thích Ca.
8, Tâm Minh - Lê
Đình Thám tuyển tập (gồm 5 tập).
Đời người là vô
thường, ông đã ngộ lý ấy và đã bình thản ra đi
vào ngày 23-4-1969 (nhằm 7- 3 ÂL, năm Kỷ Dậu),
sau khi đã đàm đạo lần cuối cùng với Hòa thượng
Đôn Hậu tại bệnh viện Việt- Xô, Hà Nội. Hưởng
thọ 73 tuổi, với 42 năm phụng sự Tam Bảo.
Tinh thành trong
giai đoạn chấn hưng Phật giáo giữa thế kỷ XX, Cư
sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám quả là bậc tiền bối
hữu công thật sáng chói, ông đã vượt qua ranh
giới hình thức để tựu thành đạo nghiệp cao quý
cho hàng hậu tấn ngưỡng vọng dù xuất gia hay tại
gia.
* Chân thành
tri ân Cư sĩ Thông Hưng Nguyễn Đức Thạnh – Gia
Đình Phật Tử Tây Phương Gainesville – đã cung
cấp tiểu sử & hình ảnh trên! |