LO ÂU VÀ SỢ HÃI
(WORRY
AND FEAR)
Nguyên tác:
Dr.K.Sri Dhammananda
Chuyển ngữ:
HT Thích Trí Chơn
“Con
người phải trả giá đắc cho mối sợ hãi và buồn lo
của mình để xứng đáng làm người. Tính dễ dàng lo
sợ của chúng ta là mảnh đất cho sự phát triển
của nhân loại”.
Lo âu và sợ hãi
là điều quá thông thường trong cuộc sống con
người. Không ai thoát khỏi tình trạng bất hạnh
này của tinh thần chừng nào tâm của họ còn nghĩ
đến thế giới tục lụy hiện nay. Người không thích
có những lo nghĩ và sợ hãi cần phải thanh tịnh
hóa bản thân và đạt tới sự toàn thiện; vì thế
nếu một người khá sáng suốt, họ có thể tu luyện
tâm của họ, cùng khắc phục những buồn lo và sợ
hãi bằng cách nhận thức bản chất của cuộc sống.
Nhiều người có
những ước mong và ham muốn, lo sợ và buồn phiền
mà họ không biết thanh lọc nên đành chấp nhận
chúng, ngay cả cho chính họ. Song những tình cảm
không lành mạnh này có năng lực. Họ có thể ra
sức cố gắng đè nén để tìm sự giải thoát bằng
cách gây xáo trộn cho cơ thể, mà kết quả là tạo
nên các chứng bệnh kinh niên. Tất cả mọi điều
này có thể đẩy lui bằng những phương pháp tọa
thiền chân chính hoặc tu luyện tinh thần; bởi vì
cái tâm không tu là nguyên nhân chính của mọi sự
lo buồn.
Đức Phật dạy:
“Phiền não của con phát sinh do chính hành động
vô minh của con. Như Lai sẽ dạy cho các con
phương pháp giải thoát khỏi phiền não đó. Nhưng
chính các con phải tu tập để đạt tới điều ấy”.
Cho nên ý lực mạnh mẽ của bạn dự phần lớn lao
trong việc chế ngự những nỗi buồn lo của bạn.
Lại nữa, đức Phật dạy: “Do tham đắm sanh sầu
khổ, do tham đắm sanh sợ hãi; người nào dứt hết
được tham dục sẽ không còn khổ đau và sợ
hãi”. Ở đây chúng ta thấy đắm say quá nhiều
vào mọi vật tại thế gian này là nguyên nhân
chính khác gây nên những phiền muộn và buồn lo.
Đức Phật đã khuyên chúng ta: “Chúng ta nên
kiểm soát các cửa ngõ của giác quan (căn môn);
chúng ta nên hạn chế sự ăn uống, chúng ta hãy
phát nguyện luôn tinh tấn và trang bị cho chúng
ta một trí tuệ thanh tịnh, không nhiểm ô, để
giải thoát mọi khổ đau”.
Điều ấy rõ ràng
chứng tỏ là có một pháp môn dành cho chúng ta tu
tập để vượt thoát khỏi những nỗi buồn lo, khổ
đau và sợ hãi bất hạnh này. Bạn trách cứ
người ta đã gây phiền muộn cho bạn; nhưng kẻ
khác làm sao có thể tạo nên sự phiền não trong
lòng bạn, nếu bạn biết cách điều phục được cái
tâm của bạn. Hẳn nhiên họ gây ra những khó khăn
cho bạn, nhưng bạn có thể can đảm đương đầu với
chúng, nếu bạn có đủ sự hiểu biết.
Kinh nghiệm cho
chúng ta thấy rằng phần lớn các bệnh tật, cả thể
xác và tinh thần, đều do phiền muộn gây nên. Y
học đã rõ ràng xác nhận ý kiến cho rằng các
chứng bệnh như tiểu đường, áp huyết cao và loét
bao tử, đã khiến trầm trọng thêm, nếu không thực
sự là vô phương chữa chạy, bởi những tình trạng
lo buồn. Các bác sĩ đang ngày càng đồng ý tin
rằng, trong khi chữa trị phần lớn những cơ thể
bệnh hoạn, họ chú ý cẫn thận đến tình trạng tinh
thần của bệnh nhân, và thực sự thấy rõ là những
điều lo buồn không bao giờ giải quyết được vấn
đề của bạn; mà chỉ làm suy nhược thể xác lẫn
tinh thần con người bạn, và không bao giờ giúp
bạn trong bất cứ phương diện nào có lợi ích cho
chính bạn. Không những thế, bạn còn tạo nên
không khí buồn phiền trong gia đình, tại sở làm
của bạn và ngoài xã hội. Bạn cũng phải chịu
tránh nhiệm về việc quấy rầy sự an lạc và hạnh
phúc của người khác.
Trong mọi tình
huống có hại cho tinh thần, tình trạng có khả
năng nguy hiểm và bệnh hoạn nhất là sự lo nghĩ
trường kỳ. Chúng ta thường hỏi, tại sao con
người lo âu? Trong sự phân tích cuối cùng, chỉ
có một câu trả lời. Con người lo buồn vì quá
nghĩ đến cái “Tôi” và mọi vật “của Ta”. Chúng ta
mong cầu sự an lạc cho chính chúng ta, và những
người chúng ta yêu thương trong một thế giới
luôn luôn biến đổi, không có sự an toàn vĩnh
cửu. Một người xây lâu đài cát trên bãi
biển, luôn lo sợ mọi làn sóng nước.
Khi trong lòng
bạn có những lo buồn, bạn không nên phơi bày bộ
mặt sầu khổ của mình trước bất cứ ai và mọi
người mà bạn tiếp xúc. Bạn chỉ nên nói ra nỗi
phiền muộn của bạn cho những ai thực sự có thể
giúp bạn. Đẹp đẽ biết bao nếu bạn có thể giữ mãi
nét mặt tươi vui dù bạn có phải đương đầu với
những khó khăn. Điều này không hẳn khó làm nếu
bạn thực tâm cố gắng. Nhiều thiếu niên quá buồn
khổ khi tình bạn giữa họ và các cô bị mất mát.
Họ thường toan tính, ngay cả hành động tự vẫn,
vì gặp phải cảnh ngộ tuyệt vọng và chán chường.
Có người tìm đến ở nhà thương điên. Nhiều thanh
niên tan nát cõi lòng đã hướng đời mình vào kiếp
sống khổ đau. Tất cả những biến cố tang thương
này xảy ra đều do sự thiếu hiểu biết về bản chất
chân thực của cuộc đời. Và bằng cách nào rồi
chúng ta vẫn không tránh khỏi được sự vĩnh viễn
ra đi hay chia lìa. Điều này có khi xảy ra lúc
mới bắt đầu sự nghiệp cuộc sống, hoặc ở giữa,
hay cuối đời người; nhưng chắc là không tránh
được. Khi các việc ấy xảy đến, bạn nên cố gắng
thử tìm xem nguyên nhân ở đâu. Tuy nhiên, nếu sự
biệt ly vượt ngoài sức chịu đựng, bạn cần có can
đảm chấp nhận nó bằng cách thấu triệt bản chất
của đời sống. Nhưng trái lại, thật cũng không
khó cho bất cứ ai muốn tìm những người bạn mới
để lấp đầy cái khoảng trống (cô đơn) nếu họ thực
sự mong muốn.
SỢ HÃI
“Lo sợ là đứa con
của tánh vị kỷ và vô minh”
Đời sống con
người đầy những nỗi lo sợ thầm kín, chúng thọc
sâu vào thượng tầng và những nơi ẩn náu tối tăm
của cá nhân. Sự sợ hãi có mặt ở khắp nơi – sợ
thiếu thốn, sợ đói khát, sợ điều chúng ta có hôm
nay có thể mất ở ngày mai; sợ ốm đau, già nua và
chết chóc; và đôi lúc niềm lo sợ mơ hồ lấp đầy
cuộc sống chúng ta với những âu lo. Nỗi bất hạnh
ấy làm khổ sở vô số con người.
Sự lo sợ gây nên
tan nát cuộc đời, làm vẫn đục tâm hồn; đó là ý
tưởng bi quan, và sợ hãi làm mờ tối cả tương
lai. Nếu con người nuôi dưỡng bất cứ mối lo sợ
nào, nó xâm nhập vào tư tưởng, tàn phá người đó,
khiến y thành chủ nhân của ma quỷ. Ảnh hưởng của
sự sợ hãi gây ra cho chúng ta lớn lao đến nỗi nó
được diễn tả như là con quỷ Xa tăng (arch-enemy)
đối với mọi người. Sợ hãi tạo nên hàng triệu
thói quen cố hữu. Tư tưởng sợ hãi có mặt khắp
nơi. Tư tưởng ấy đến với chúng ta từ mọi hướng;
sống trong âu lo, kinh hoàng thường trực, liên
tục sợ những loài ma quỷ và thần linh.
Niềm lo sợ trong
tôn giáo là một hình thức sợ hãi tệ hại nhất.
Các phương pháp lễ bái của tôn giáo đều xây dựng
trên bản năng sợ hãi những điều mà con người
không hiểu biết được. Sợ hãi giam cầm tâm thức,
nó là cha đẻ của mê tín, phát triển trong khu
rừng của vô minh.
Sợ hãi là quy
luật của một vài tôn giáo, bởi vì con người
trong tham vọng quyền lực của nó, mong ước ngự
trị cả đến vật siêu nhiên, đã trở thành nô lệ
cho sự mê tín. Con người bị bao vây bởi sự huyền
bí; và chính do bản chất không thể giải thích
được các cảnh vật ngoại giới mà đầu tiên tôn
giáo đã phát sanh, dễ nuôi dưỡng vô minh và
thích nghi với sợ hãi.
Napoleon Hill bảo
rằng: “Sự lo sợ nghèo khổ chắc hẳn là mối lo
âu tai hại nhất trong sáu điều sợ hãi căn bản –
(Nghèo đói, sự chỉ trích, ốm đau, mất người mình
yêu thương, tuổi già và chết chóc). Nó được sắp
hàng đầu trong danh biểu, vì đó là điều khó chế
phục nhất. Cần có can đảm để giải thích sự thật
về nguồn gốc của mối lo sợ nghèo khổ này; và còn
phải dũng khí hơn nữa mới chấp nhận được chân lý
sau khi nó được tỏ bày. Mối lo sợ nghèo khổ phát
sinh từ khuynh hướng cố hữu của con người có
tham vọng bắt kẻ khác làm nô lệ kinh tế cho
mình. Hầu như tất cả loài vật thấp kém hơn con
người, nên đã sống theo bản năng, và khả năng
suy tưởng của chúng bị giới hạn, cho nên thú vật
đã ăn thịt lẫn nhau. Con người, với trình độ cao
hơn của trực giác, trí năng suy nghĩ và lý luận,
nên không ăn thịt thân xác đồng loại của mình;
nhưng nó đã thỏa mãn hơn trong việc ‘nuốt chửng’
tiền bạc của kẻ khác. Nhân loại vì quá tham lam
nên các luật pháp phổ biến đã được thông qua để
bảo đảm quyền lợi giữa con người với nhau”.
Tìm cách phơi bày
công khai mối lo sợ của chúng ta và thành thực
trực diện với nó là điều căn bản quan trọng. Khi
còn trẻ thơ, chúng ta bắt đầu chỉ có hai điều sợ
hãi–sự té ngã và tiếng nạt lớn. Từ đó, các điều
sợ hãi khác mới được biết đến sau. Khám phá
những nỗi lo sợ ở đâu và làm sao chúng ta mang
được chúng ra để tìm biết sự phát triển của
chúng cho đến khi chúng ta thấy rằng những điều
sợ hãi ấy là cái gì khác chứ không phải của
chính mình; tức chúng ta đã đánh thắng được một
nữa trận chiến.
Niềm lo sợ đã
theo gót chân nhân loại trải qua nhiều thế kỷ:
chúng ta sợ thú dữ, núi rừng hoang vu; sợ các vị
thần sấm sét không thể giải thích được; sợ kẻ
láng giềng và con người.
Con người tự mình
tìm ra trước tiên điều này, rồi tới điều khác;
chậm rãi, qua hàng thế kỷ, nó đã chiến đấu với
mối sợ hãi. Các bậc thầy và những vị đại trí đã
xuất hiện để giúp đỡ con người chiến đấu.
Con người và con
cái của nó đã không phải chết vì bịnh dịch. Con
người và con em của nó không còn tổ chức những
cuộc giết người làm vật cúng tế để thoa dịu sự
phẫn nộ của các vị thần linh không thấy biết
được. Con người và các cháu nhỏ cuả nó không cần
phải giết hại người khác vì họ là kẻ xa lạ. Con
người và con cái của nó không còn là những tên
nô lệ, và mức độ của sự lo sợ sẽ được giảm bớt.
Nhờ trí năng con
người phát triển, nó giúp chúng ta nhận thức
rằng chúng ta đang sống trong một vũ trụ được
thiết lập có trật tự. Rồi mối sợ hãi sẽ ra đi.
Khi chúng ta càng hiểu biết thiên nhiên chúng ta
càng ít lo sợ nó hơn. Nhờ thông minh, chúng ta
có thể tự bảo vệ chống trả lại sự đe dọa của
thiên nhiên; và do đó, chúng ta đã vượt lên để
chế ngự ngoại giới xung quanh. Trái lại, người
mọi rợ, sống bao vây bên ngoài bởi các thú dữ
mạnh hơn nó, với mưa gió, sấm sét, động đất, núi
lửa; và bên trong, với những bệnh tật, đau khổ,
ốm đau; nên họ đã quỳ lạy trước mọi sự đe dọa
của thiên nhiên để cầu xin sự che chở của các
quyền lực xa lạ. Đây chính là sự khác biệt giữa
người man rợ với thú dữ. Từ nhận thức về sức
mạnh của ngoại giới, mà con người bán khai tưởng
rằng nó có thể xoa dịu thần lực ấy bằng sự nịnh
hót hay cầu khẩn, như chính nó được xoa dịu;
người sơn cước đã phát triển khả năng lễ bái, và
quyền lực thiên nhiên đã trở thành thần linh của
nó. Quyền uy tốt đẹp trở nên các vị thiện thần,
và quyền uy xấu xa tạo ra những vị ác thần.
Trong đêm dài của
tình trạng man rợ, và trong cuộc chiến đấu
trường kỳ chống lại sức mạnh của Thiên Nhiên,
những hạt giống mê tín đã được gieo rắt vào tâm
thức con người; và sự mê tín đó còn là một phần
di sản của chúng ta trong quá khứ.
Nhưng chúng ta có thể chế ngự được kẻ thù của sự
bình an này. Sợ hãi phát sanh từ những kẻ không
thể thấu hiểu được các định luật của Thiên
Nhiên.
Đức Phật dạy
rằng: “Bất cứ đâu sự sợ hãi phát sinh, nó chỉ
sinh ra nơi người vô minh, chứ không có ở người
trí tuệ”. Các mối lo sợ không gì khác hơn là
những trạng thái của tâm thức. Trạng thái tâm
thức của con người tùy thuộc vào hành động kiểm
soát và hướng dẫn của ý tưởng; ý nghĩ tiêu cực
(vô minh) sẽ tạo ra mối sợ hãi; ý nghĩ tích cực
(trí tuệ) mang lại cho chúng ta hy vọng cùng lý
tưởng hạnh phúc; và giữa các trường hợp đó, sự
chọn lựa hoàn toàn do nơi chúng ta. Mọi người
điều có khả năng kiểm soát trọn vẹn tâm thức của
chính mình. Thiên nhiên đã ban cho con người
quyền kiểm soát tuyệt đối một điều, đó là tư
tưởng. Điều này, kết hợp thêm với sự kiện là mọi
vật, mà con người tạo ra đều bắt đầu trong hình
thức của tư tưởng, đã hướng dẫn con người đến
rất gần nguyên lý tin rằng sự sợ hãi có thể khắc
phục được.
Có lần, một sinh
viên đã hỏi nhà giải phẩu danh tiếng người Anh
rằng có phương pháp nào hay nhất để chữa lành
bệnh sợ hãi, và ông ta trả lời rằng: “Anh nên
cố gắng làm một việc gì cho người nào đó”.
Người sinh viên hết sức ngạc nhiên về câu trả
lời, nên đã yêu cầu giải thích rõ thêm về điều
nhà giải phẩu mới nói (nghĩa là): “Anh không
thể có hai dòng tư tưởng đối nghịch trong tâm
thức của anh vào một lúc và cùng một thời gian.
Dòng tư tưởng này sẽ luôn luôn xua đuổi dòng tư
tưởng khác đi. Ví dụ, khi trong tâm thức anh bị
xâm chiếm hoàn toàn bởi ý tưởng lợi tha muốn
giúp đỡ ai đó, anh không thể nào cùng lúc ấy lại
có ý nghĩ sợ hãi khác được”.
“Lo nghĩ làm
con người khô cạn máu huyết và già trước tuổi”.
Sợ hãi, lo âu và buồn phiền có chừng mực là bản
tính tự nhiên của sự tự bảo tồn. Nhưng nếu sợ
hãi liên miên, và thường xuyên lo nghĩ thì các
điều ấy là kẻ thù rất tai hại cho cơ thể con
người. Chúng sẽ làm xáo trộn những hoạt động
bình thường của thân thể.
Tính sợ hãi, như
một nguyên tắc hay động lực, đều là bắt đầu của
nhiều điều tội lỗi. Ý tưởng lo ngại phải chịu sự
phẫn nộ trừng phạt của đấng Thượng Đế đã ăn sâu
vào tâm trí những tín đồ theo đạo giáo của giống
dân Xê-Mít (Semitic, vùng Tây Á). Theo người
Phật tử thì không có điều gì phải lo sợ, trừ khi
mình có tâm tánh xấu xa, thì nên cố gắng sửa đổi
và cải thiện. Vì vậy trong lòng người con Phật
không có sự áy náy lo nghĩ để sanh ra phiền muộn.
Theo vài nhà tôn giáo khác, đức tin là điều kiện
chủ yếu cho sự giải thoát nhưng đối với Phật tử
thì do tư cách và đạo đức của chính mình. Rồi
Phật pháp (Dhamma) cần nên thực hành và chứng
ngộ trong ánh sáng chân thực của nó, để diệt trừ
tận gốc rể của sợ hãi.
Nếu bạn biết cách
làm vùa lòng kẻ khác, bạn luôn luôn có tính tình
vui vẻ. Bởi vì bạn không cho phép tâm của bạn
chứa chất những nỗi lo buồn trong đó. Bác sĩ
Alexis Carrel bảo rằng: “Khi tánh ganh ghét,
sân giận, sợ hãi trở thành thói quen, chúng có
thể bắt đầu tạo nên các chứng bệnh thực sự. Suy
nghĩ có thể gây ra tai hại cho cơ thể. Sự đau
khổ tinh thần tàn phá mãnh liệt sức khỏe. Các
thương gia nào không khắc phục được nỗi buồn lo
sẽ chết sớm. Những ai, giữa cảnh huyên náo của
thị thành hiện đại, giữ được nội tâm an tĩnh, sẽ
tránh được bịnh thần kinh và cơ thể xáo trộn.”
Nỗi lo âu thường
xuyên của bạn là bịnh tê bại kinh niên. Tánh
giận hờn và sân hận của bạn hiện tại sẽ khiến
cho một vài hay những cuộc sống, nhất là đời
sống của chính bạn trở nên đen tối hơn; cũng như
sự khoan dung và lòng tốt của bạn sáng hôm nay,
có thể ảnh hưởng đến viễn ảnh và tình trạng của
những người mà bạn vừa mới quen biết. Đây là lời
dạy khác của đức Phật: “Người sanh tâm sợ hãi
trong khi không đáng sợ; và không biết sợ trong
hoàn cảnh đáng sợ, chấp chặt tà kiến, sẽ đi vào
tình trạng khổ đau”.
Trích dịch tập “Why Worry?” (Tại Sao Lo
Âu ?) của
Dr. K.
Dhammananda

|