LÒNG TỪ BI HÓA ĐỘ CỦA
ĐỨC PHẬT
ĐỐI VỚI CÁC VỊ BÀ LA
MÔN NGOẠI ĐẠO
Vào
thời đức Phật còn tại thế, trong suốt bốn mươi
lăm năm hoằng pháp, Ngài đã hóa độ hàng trăm
ngàn người xuất gia lẫn tại gia. Đệ tử của đức
Phật gồm đủ thành phần từ các vị Bà La Môn
(Brahmins), vua chúa đến thứ dân, giàu sang phú
quý đến hạng cùng đinh nghèo khổ. Ngay cả hạng
gái điếm lẳng lơ, những tên cướp giết người
không gớm tay cũng đều được đức Phật cứu độ nếu
họ có duyên với Ngài. Nói tóm, lòng từ bi của
đức Thế tôn bao trùm khắp mọi chúng sanh, không
phân biệt giai cấp, giàu nghèo hay chức vị, v.v.
Trong bài viết này, tôi xin ghi lại dưới đây,
qua các kinh điển Phật giáo, một số trong nhiều
vị Bà La Môn theo ngoại đạo nổi danh được đức
Phật hóa độ trong cuộc đời hoằng pháp lợi sanh
của Ngài. Những vị đó là đạo sĩ Sonadanda,
Kutadanta, Pokkharasati, Sela và Sundarika
Bharadvaja v.v.
1. Đạo sĩ SONADANDA
Anga (nay là thị trấn Bhagalpur, thuộc tiểu bang
Bihar, miền đông bắc Ấn Độ), là một trong những
vương quốc lớn vào thời đức Phật còn tại thế.
Anga thời xưa, ngoài kinh đô đóng tại Campa (gần
Bhagalpur ngày nay) còn có các thành phố quan
trọng khác là Bhaddiya và Assapura. Đây là những
nơi đức Phật thường đến thuyết pháp cho dân
chúng. Anga lúc ấy được đặt dưới sự bảo vệ của
vua Tần Bà Sa La (Bimbisara), trị vì vương quốc
Ma Kiệt Đà - Magadha (nay gồm quận Patna và Gaya,
tiểu bang Bihar, Ấn độ). Bấy giờ cả hai quốc gia
chung sống hòa hợp đoàn kết như cùng một dân tộc.
Một hôm, đức Phật đến kinh thành Anga hoằng pháp
và Ngài ở lại trên bờ hồ Gaggara (gần thành phố
Campa). Hay tin, dân chúng lũ lượt kéo đến đảnh
lễ và nghe Ngài thuyết pháp. Lúc ấy, có vị Bà La
Môn tên Sonadanda rất giàu và thông bác kinh
điển Phệ Đà (Veda) của Ấn độ giáo cũng muốn đến
yết kiến đức Phật; nhưng các đệ tử của Sonadanda
bảo rằng với kiến thức uyên bác của ông, đức
Phật chẳng có gì đáng cho ông đến gặp. Tuy nhiên,
Sonadanda vẫn không nghe lời khuyên của các đệ
tử mình, và ông đã đến tìm gặp đức Phật.
Sonadanda được đức Thế Tôn giảng cho nghe kinh
Sonadanda (thuộc Trường Bộ Kinh - Digha
Nikàya). Đại ý Ngài dạy rằng không phải do
sự sanh trưởng con người trở thành hạng cùng
đinh thấp hèn nhất hay giai cấp Bà La Môn cao
quý nhất, mà quan trọng là ở hành động đạo đức,
xấu hoặc tốt của con người quyết định cho thấy
họ là thành phần giai cấp hạ tiện hay cao quý.
Nghe xong, đạo sĩ Sonadanda lòng rất hoan hỷ,
phát tâm cầu xin đức Phật cho phép được quy y
Tam Bảo và hôm sau, ông đã cung thỉnh đức Phật
và các đệ tử của Ngài về nhà thọ trai.
2. Đạo Sĩ KUTADANTA
Thời Phật còn tại thế, Kutadanta là một vị Bà La
Môn thông bác kinh điển Phệ Đà, có rất nhiều đệ
tử và tín đồ. Ông được vua Tần Bà Sa La (Bimbisara)
sùng kính và nhà vua đã hiến cúng cho ông ta
ngôi làng Khanumata trong nước Ma Kiệt Đà. Ngày
nọ, đức Phật đến hóa duyên tại làng này. Lúc ấy,
Kutadanta đang chuẩn bị giết các thú vật gồm một
số lớn bò đực, bò cái, cừu con và dê để tế thần.
Khi hay tin đức Phật đến ở tại vườn xoài trong
làng mình, Kutadanta muốn đến yết kiến để thỉnh
vấn Ngài về phương thức tế lễ thế nào cho có
nhiều kết quả.
Các đệ tử của Kutadanta cố gắng khuyên ông đừng
đi, nhưng ông đã nói cho họ biết đức Phật là một
đấng Giác Ngộ vĩ đại, và sau cùng ông đã thuyết
phục được họ cùng đi đến viếng thăm Ngài. Đức
Phật giảng cho Kutadanta và các đồ đệ tử của ông
nghe kinh Kutadanta (thuộc Trường Bộ Kinh) nhằm
giải thích cho Kutadanta hiểu rõ lợi ích của đời
sống tu hành, không giết hại sinh vật và sau đó,
Ngài hướng dẫn ông ta đi sâu vào giáo lý của Tứ
Diệu Đế, Bát Chánh Đạo v...v…
Kết thúc bài pháp, Kutadanta liền chứng quả Tu
Đà Hoàn, quả đầu tiên trong bốn quả Thánh. Đạo
sĩ Kutadanta cũng từ bỏ ý định giết các sinh vật
để tế lễ và ngày hôm sau ông đã cung thỉnh đức
Phật cùng chư Tỳ Kheo về nhà để cúng dường trai
Tăng.
3. Đạo sĩ POKKHARASATI
Ukkattha thời đức Phật, là một thành phố thuộc
vương quốc Kiều Tát La – Kosala (nay thuộc quận
Gorakhpur, tiểu bang Uttar Pradesh, miền đông
bắc Ấn). Thị trấn Ukkattha được nối liền với
Satavya, một thành phố khác trong nước Kiều Tát
La thẳng đến thành Tỳ Xá Ly- Vesali, thủ đô của
xứ Vajji (nay là làng Basarh, quận Muzaffarpur,
tiểu bang Bihar). Đức Phật thường đi hoằng pháp
ngang qua con đường này. Pokkharasati cũng là
một tu sĩ thông bác kinh điển Bà La Môn giáo nên
được vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) nước Kiều Tát La
hiến tặng cho thành phố Ukkattha nói trên. Ông
ta rất đẹp trai và trông giống như một đóa hoa
sen màu trắng.
Một hôm, trên đường du hóa đức Phật ghé vào ở
khu rừng gần thành phố Ukkattha, đạo sĩ
Pokkharasati nghe tin liền yêu cầu vị đệ tử của
ông là Ambattha đến gặp đức Phật để xem Ngài
thực sự có đủ ba mươi hai tướng tốt của một bậc
Giác Ngộ tuyệt luân như mọi người khắp nơi tán
thán hay không. Ambattha đã đến yết kiến đức
Phật và tỏ thái độ trịch thượng, tự cao tự đại.
Nhưng đức Phật vẫn trầm tĩnh hoan hỷ thuyết
giảng cho ông nghe kinh Ambattha (thuộc Trường
Bộ Kinh).
Sau đó, Ambattha trở về kể lại cho Pokkharasati
nghe rõ đầu đuôi câu chuyện gặp gỡ cũng như thái
độ cư xử không đẹp của mình đối với đức Phật;
tuy nhiên ông xác nhận rằng đức Phật quả đúng có
những tướng tốt của một đấng siêu phàm. Nghe
xong, Pokkharasati bực mình và tức giận về thái
độ bất kính của Ambattha đối với đức Phật. Ông
liền trách mắng người đệ tử vô kỷ luật và đã
đích thân đến xin lỗi đức Thế Tôn về thái độ vô
lễ của Ambattha đối với Ngài trước đây. Rồi đạo
sĩ Pokkharasati cung thỉnh đức Phật về nhà cúng
dường trai Tăng. Sau khi thọ trai, đức Phật đã
thuyết giảng cho ông ta và các môn đồ của ông
nghe kinh Pokkharasati. Nghe xong, ông liền
chứng đắc quả Tu Đà Hoàn và trở thành đệ tử của
đức Phật. Tất cả môn đồ của Pokkharasati, ngoại
trừ Ambattha, đều phát tâm quy y Tam Bảo.
4. Đạo sĩ SELA
Anguttarapa, thời đức Phật tại thế là một phần
của vương quốc Anga (nay là quận Bhagalpur, phía
đông tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Độ) có
kinh đô đóng tại thị trấn Apana. Một hôm đức
Phật đến trú tại rừng trên bờ sông Mahi trong
thành phố Apana. Sela, một đạo sĩ thông bác kinh
điển Phệ Đà (Vedas), có nhiều bạn hữu và tín đồ,
cũng cư ngụ ở thị trấn này.
Ngày kia, Sela đến thăm Keniya, một đạo sĩ Bà La
Môn giàu có, chung sống với gia đình tại một
ngôi tịnh thất khang trang rộng rãi. Sela ngạc
nhiên thấy Keniya và bạn bè đang sửa soạn tổ
chức nấu tiệc linh đình liền hỏi thăm thì được
Keniya cho biết rằng ngày mai ông sẽ mời đức
Phật và chư Tỳ Kheo về nhà để cúng dường trai
Tăng . Khi Sela vừa nghe đến danh từ “Phật”, ông
ta liền phát tâm kính phục và muốn đi ngay đến
để gặp Ngài. Sau khi yết kiến đức Phật, nghe
Ngài thuyết giảng kinh Sela, ông ta và các đệ tử
đã xin theo Phật xuất gia làm Tỳ Kheo. Trải qua
một thời gian tinh tấn tu hành, Sa môn Sela đã
chứng đắc quả A La Hán.
5. Đạo Sĩ SUNDARIKA BHARADVAJA
Thời đức Phật tại thế, có một đạo sĩ Bà La Môn
tên Sundarika Bharadvaja thường ra tắm ở sông
Sundarika, một con sông thiêng liêng chảy ngang
qua vương quốc Kiều Tát La (Kosala), vì ông tin
rằng nước sông ấy có thể rửa sạch hết mọi tội
lỗi của con người.
Một hôm, trên đường du hóa đức Phật ghé lại ở
trên bờ sông này, gặp lúc đạo sĩ Sundarika
Bharadvaja đang làm lễ cúng thần lửa. Khi buổi
lễ kết thúc, vị Bà La Môn nhìn xung quanh mong
tìm xem thử có ai ở gần đó xứng đáng được thừa
hưởng các lễ vật còn lại sau khi cúng xong hay
không. Bấy giờ ông ta thấy đức Phật, trên đầu
Ngài được phủ khăn che kín, đang ngồi dưới một
gốc cây. Khi nghe bước chân của vị Bà La Môn đến
gần đức Phật liền tháo lấy khăn trên đầu xuống.
Thấy đức Phật, Sundaraka Bharadvaja hỏi Ngài là
ai, thuộc giai cấp nào? Đức Thế Tôn liền giảng
cho ông ta nghe kinh Sundarika Bharadvaja được
ghi chép trong Kinh Tập (Sutta Nipata) thuộc
Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikàya)
Nội dung của kinh này đức Phật nhằm chỉ dạy cho
vị Bà La Môn trên thấy rằng không phải giai cấp
mà đạo đức tu hành, sự nghiêm trì giới luật và
biết kiềm chế ái dục của con người mới thực quan
trọng. Nghe xong, Sundarika Bharadvaja liền xin
đức Phật xuất gia làm Tỳ Kheo và sau một thời
gian tinh tấn tu hành, ông ta đã giác ngộ, chứng
đắc Niết Bàn.

Tài
liệu tham khảo:
1. Digha
Nikàya - Trường Bộ Kinh (Dialogues of the
Buddha), Vol.I, translated from Pali into
English by Dr.T.W.Rhys Davids, The Pali Text
Society, London, Reprinted 1977.
2. Sutta
Nipata - Kinh Tập (Woven Cadences of Early
Buddhists), translated from Pali into
English by E.N Hare, Sacred Books of the
Buddhists, London 1945.
3.
Historical Geography of Ancient India (Lịch Sử
Địa Danh Thời Cổ Ấn Độ) by Dr.B.C. Law, Delhi
(India), 1984. |