NHẤT CHI MAI
Thích
Chân Tuệ
Trong
dịp năm hết tết đến, mọi người đều nhắc đến hoa
mai. Trong văn học đại chúng, cũng như văn học
Phật giáo, có nhiều bài văn bài thơ cảm tác về
mùa xuân thường đề cập đến hoa mai.
Những vần thơ bất
hủ, những áng văn trác tuyệt đi vào lòng người
thường được nhắc tới, những câu thơ tuyệt bích
trong thi ca Thiền học về không gian và thời
gian, như bài thi kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn
Giác Thiền sư:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa
khai
Sự trục nhãn
tiền quá
Lão tùng đầu
thượng lai
Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhứt chi mai
tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa
rơi
Xuân đến trăm
hoa nở
Việc đời qua
trước mắt
Già theo đến
trên đầu
Chớ bảo xuân qua
hoa rụng hết
Đêm qua sân
trước một nhành mai
(Thích-Chân-Tuệ)
*
Thiền sư Mãn Giác
(1052 - 1096) họ Nguyễn tên Trường, người xứ
Lũng Chiền, làng An Cách, con của Trung Thư Viên
Ngoại Lang Hoài Tố, ham học, từ trẻ đã học hỏi
nhiều và thông hiểu về Phật giáo, Lão giáo và
Nho giáo, được vua Lý Nhân Tông khen ngợi, triệu
vào cung và ban cho tên Hoài Tín. Sau đó xuất
gia, thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, thế hệ thứ
8. Vua Lý Nhân Tông và Hoàng Hậu rất mến trọng
sư, cho xây một cảnh chùa cạnh cung Cảnh Hưng để
tiện việc tham hỏi về Phật học. Thiền sư mất năm
45 tuổi. Vua ban hiệu là Mãn Giác. Rất tiếc các
sáng tác của sư không còn giữ lại, chỉ còn một
bài "Cáo tật thị chúng" (Báo bệnh dạy chúng) rất
nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam.
* * *
Trước hết, về
phương diện văn chương, đây là một trong những
bài thơ tuyệt vời, thường được trong giới nhà
thiền hay những văn nhân thi sĩ nhắc lại cái
hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào những độ xuân về.
Về phương diện ý
nghĩa, bài
kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư,
làm ra trước khi viên tịch, có ý nhắc các đệ tử
rằng: xuân đến thì trăm hoa nở, xuân đi trăm hoa
rụng, đó là qui luật tuần hoàn, như thiên nhiên
có đến có đi, hoa có nở có tàn, con người có
sinh có diệt. Điều này có thể nghiệm thấy qua
mái tóc bạc trên đầu, thân thể bệnh tật, chuyện
gì rồi cũng qua!
Nhưng, đừng tưởng
xuân qua hoa rụng hết, đêm qua, sân trước, vẫn
còn nhánh mai. Nghĩa là đừng tưởng con người ra
đi là cuộc đời kết thúc. Thực ra, cuộc đời vẫn
tiếp diễn theo qui luật thiên nhiên, mọi người
vẫn tiếp tục cuộc sống, cây cỏ vẫn tốt tươi trở
lại sau mùa đông băng giá: xuân qua, hạ đến, thu
sang, đông tàn!
Lời thơ uyên áo,
thiền vị, ý nghĩa tuyệt vời! Nhứt chi mai là
niềm hi vọng, là cái tốt trên đời không thể mất,
là sự tồn tại của các giá trị siêu việt. Người
tục hiểu khác người tu, nhưng cả hai đều thấy có
cái trường tồn bất diệt chi phối cõi đời này. Đó
thiệt là điều đáng quí! Bài thơ quả là một thông
điệp rất lạc quan!
Ngoài giá trị thi
ca tuyệt tác, bài thơ sáu dòng trên nói lên sở
ngộ của một bậc thiền sư. Giữa dòng đời mọi vật
đều vô thường, biến đổi: đến đi, nở tàn, ngày
đêm, trước sau, vẫn có mặt cái thực tại như
thật, cái thực tại luôn hiện hữu cùng với con
người, mà con người thường không thấy, hay bị
che khuất bởi các tướng sinh diệt.
Thiền sư thì thấy
rất rõ: hình ảnh nhánh mai vàng rạng rỡ trước
sân của thời điểm xuân tàn.
Không phải chỉ có
nhánh mai ở bên ngoài cảnh vật, còn hiện diện
một nhánh mai vàng rực rỡ trong tâm thức con
người, dù cho tâm trạng phiền não của buổi xuân
tàn.
Bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào, không gian và thời gian nào, con
người cũng có điều kiện mỉm cười ngắm nhìn nhánh
mai ấy, mặc cho sóng gió của lịch sử, hay bát
phong của cuộc đời, cũng không đủ để dập tắt nụ
cười ấy, nụ cười của một bậc thiền sư.
Cái sở ngộ thực
tại, cái thấy thực tại ấy, khiến hành giả sống
rất lạc quan, sống với niềm tin không sinh không
diệt trong cuộc sống.
Há đây không phải
là một sức mạnh tâm lý phi thường, đánh thức tâm
thức con người, trước bao nhiêu cảnh xuân tàn đó
hay sao? Đây mới thực sự là điểm sống của bài
thơ trên, và là điểm sống của thi ca, văn chương
thiền học Việt Nam.
Về phương diện
tu học,
mùa xuân có đến ắt có đi theo qui luật tuần hoàn
của thiên nhiên, không vĩnh viễn tồn tại, cũng
không vĩnh viễn mất đi, có đi ắt có đến theo
vòng sanh tử luân hồi.
Con người cũng
không tránh khỏi các qui luật này. Trong vòng
sanh tử luân hồi, con người đã bao lần trải qua
4 giai đoạn: sanh, trụ, dị, diệt! Muốn thoát ly
được sanh tử luân hồi, người tu theo Phật phải
làm sao giác ngộ được bản tâm thanh tịnh bất
sanh bất diệt.
Trong cuộc sống,
khi tiếp xúc với cảnh trần, tâm con người sanh
ra không biết bao nhiêu phiền não khổ đau.
Muốn dẹp bỏ các
tâm trạng bất an này, con người cần áp dụng tứ
vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Khi các vọng tâm
phiền não hoàn toàn dứt sạch, con người đạt được
cảnh giới vô tâm.
Vô tâm tức là
không còn bị các vọng tâm phiền não gây khổ đau
nữa, nói cách khác: tức là không còn tâm tham
lam, sân hận, si mê, ganh tị, đố kỵ, làm phách,
mắc mỏ, ỷ già, ỷ tài, ỷ giàu sang, đang thế lực,
lăng xăng lộn xộn.
Khi tất cả những
thứ đó rơi rụng hết trơn, ví như xuân tàn hoa
lạc tận, thì lúc đó bản tâm thanh tịnh, hay chân
tâm, hiển lộ. Chân tâm bình đẳng là con người
chân thật. Khi đó, con người chân thật sống
trong an nhiên tự tại của niết bàn.
Nếu như phiền não
(tham, sân, si) chưa dứt sạch (hoa tàn chưa rụng
hết trơn), làm sao thấy được chân tâm, làm sao
thấy được nhứt chi mai? Ví như mặt trời luôn
sáng tỏ, nhưng vì bị mây đen (phiền não) che
khuất, ánh sáng trí tuệ không tỏ đó thôi! Nếu
người nào hiểu được rõ ràng thì phước biết bao!
Người nào bớt được phiền não khổ đau, thì người
xung quanh cũng đỡ khổ biết bao!
Cho nên kinh sách
có câu: vô tâm tức niết bàn, chính là nghĩa đó
vậy!
Cũng như Thiền sư
Mãn Giác đã nói: hoa rụng hết, tức là các phiền
não rụng hết. Khi ấy, tâm thanh tịnh hiện tiền,
cũng như một nhánh mai hiện diện nơi sân trước
hồi đêm qua. Sân trước, sân sau, đêm qua, đêm
nay, ngụ ý chỉ sự đối đãi, sự tương đối, trên
đời này: có đúng có sai, có phải có quấy, có
sáng có tối, có trước có sau, có chánh có tà, có
đen có trắng, có ngày có đêm!
Dù sống trong
cảnh đời đối đãi nhị biên như vậy, nhưng nếu con
người biết pháp môn tu tập, con người vẫn có thể
giác ngộ được cái chân thật bất nhị, không còn
thấy có hai, dù không gian, thời gian nào, dù
người hay vật, sắc hay không, tượng trưng là:
nhứt chi mai!
* *
Thiền sư Mãn Giác diễn tả mùa xuân theo thời
gian cứ tuần hoàn qua lại, xuân đi rồi xuân lại
đến. Sự sự vật vật cũng theo thời gian sanh
diệt, đổi thay thay đổi, gọi là cuộc đời vô
thường!
Mỗi khi xuân đến
thì thấy hoa nở, xuân đi thì thấy hoa rụng. Hoa
rụng hoa nở theo thời gian tức là sanh diệt,
diệt sanh liên tục không ngừng. Con người cũng
cùng chung số phận đó, vì tóc trên mái đầu đã
bạc trắng cả rồi!
Như vậy, thời
gian chi phối cả vạn vật lẫn con người, không có
cái gì tồn tại mãi với thời gian. Tất cả chúng
ta rồi đây cũng sẽ tuần tự ra đi, kẻ trước người
sau, không ai tránh khỏi!
Người đời thường
bi quan trước sự vô thường biến đổi của cuộc đời
như vậy, nhưng qua hai câu chót, Thiền sư Mãn
Giác kết thúc thật tuyệt vời:
Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhứt chi mai.
Thiền sư Mãn Giác nói: chớ bảo xuân qua là hoa
rụng hết, vì đêm qua trước sân vẫn còn nhánh mai.
Thông thường,
thời gian trôi qua, con người lẫn vạn vật, tất
cả đều tàn phai hoại diệt. Nhưng trong khi cái
vật chất hữu tướng bị hoại diệt đó, còn có một
cái bất diệt, thời gian không hủy hoại được.
Cũng như ngay trong thân năm uẩn sanh diệt vô
thường của chúng ta, có cái thường hằng bất diệt,
biểu trưng bằng một nhánh mai, tồn tại dù xuân
đã qua.
* * *
Tóm lại, cái tâm
suy nghĩ phân biệt, lăng xăng lộn xộn, là tâm
duyên theo bóng dáng của trần đời bên ngoài.
Tâm đó sanh diệt
tùy duyên, tùy cảnh mà có, không thật. Còn bản
tâm hằng tri hằng giác, không đợi nghĩ suy mới
có, là tâm chân thật, là bản tâm thanh tịnh,
không sanh không diệt.
Bản tâm đó giúp
mình, việc đến biết đến, việc đi biết đi. Bản
tâm đó không hình không tướng, thênh thang trùm
khắp.
Chúng ta thường
ngày sống với cái tâm phân biệt hạn hẹp, tốt xấu
hơn thua nên gọi là mê, mê lầm. Cái tâm phân
biệt thì tùy duyên, duyên tốt thì hành xử tốt,
duyên xấu thì hành xử xấu, cho nên tâm trạng
sanh diệt, thay đổi luôn luôn.
Nếu người nào
sống với cái tâm không sanh diệt trùm khắp thì
gọi là giác, giác ngộ! Cái tâm chân thật không
phân biệt, không sanh diệt, chính là cái “biết”
đó thôi, không biến hoại và thường hằng.
Qua bài kệ trên
đây, Thiền sư Mãn Giác nhắc cho đồ đệ cũng như
chúng ta biết thân này có sanh ắt phải tử, nhưng
trong cái thân sanh tử đó có cái tâm chân thật
bất diệt.
Đây chính là cốt
tủy của đạo Phật vậy.
Thích Chân Tuệ
 |