Đạo Hiếu Trong Văn Hóa
Việt Nam
Thích Ðức Trí
Trong văn hóa
của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem
là một di sản quý báu, một chất liệu sống tốt
đẹp được mọi người yêu chuộng và giữ gìn. Khi
Phật Giáo xuất hiện ở Việt Nam thì đạo đức dân
tộc và đạo đức Phật Giáo hòa quyện vào nhau như
nước với sữa. Do người Việt sẵn có tinh thần
yêu chuộng đạo hiếu và giá trị giải thoát nên đã
tiếp nhận giáo lý Phật Giáo một cách dễ dàng.
Làm người ai cũng mang ơn sanh thành dưỡng dục
của cha mẹ. Người Phật tử Việt Nam hướng về Lễ
hội Vu Lan vào ngày rằm tháng Bảy mỗi năm là
thực hiện một phương thức báo hiếu vốn có từ lâu
đời, và xem đó như là một tín ngưỡng truyền
thống. Đây là nét đẹp của đạo hiếu xuyên suốt
chiều dài lịch sử vốn có trong nền văn hóa Việt
Nam mà bài viết này đề cập đến.
Trong văn học dân gian còn lưu lại những
dấu tích về tấm lòng yêu chuộng đạo hiếu người
con Việt. Trải qua bao giai đoạn thăng trầm của
lịch sử với những phương diện trong đời sống con
người, như kinh tế, chính trị, văn hóa và nghệ
thuật v.v , nó cùng ảnh hưởng tương tác giúp cho
người Việt Nam làm nên văn hóa của dân tộc trong
quá khứ và hiện tại. Văn học dân gian Việt Nam
đã đề cao văn hóa gia đình và dòng tộc. Trong
truyền thuyết hay truyện cổ tích, người Việt
luôn tự hào là thuộc dòng giống con rồng cháu
tiên. Lạc Long Quân như là một người cha mẫu
mực, anh hùng, thương yêu và che chở con cái lúc
hoạn nạn, thường khuyên mọi người ăn ở hiền lành,
sống đúng đạo lý cha con và tình nghĩa vợ chồng.
Đó là ý thức về hiếu hạnh, đặt nền tảng gây dựng
đạo đức xã hội.
Câu chuyện về sự tích bánh chưng
bánh dầy đã bày tỏ công lao sanh dưỡng của cha
mẹ. Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, là
người con hiếu thảo, hiền lành đã dâng lên vua
cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy
tượng trưng cho trời; với ý nghĩa xem công cha
nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở
cho con cái sống an vui giữa đời. Do vậy mà
được vua Hùng truyền trao ngôi vua. Tiền bạc,
vàng ngọc châu báu, của ngon vật lạ của các
người con khác dâng lên đều bị vua từ chối. Ý
thức ấy như ngọn gió đạo đức đã thổi vào luồng
văn hóa dân tộc để xây dựng nền đạo lý lâu dài.
Chiếc bánh chưng, bánh dầy đã trở thành một sản
phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chiếc
bánh ấy thường được dâng cúng tổ tiên trong dịp
Tết Nguyên Đán và các lễ hội hàng năm.
Trong ca dao Việt Nam, tiếng nói đạo
đức mang truyền thống văn hóa dân tộc được kết
tụ mấy nghìn năm lịch sử. Với những lời lẽ mộc
mạc, dễ hiểu đã đề cao được công lao dưỡng dục
của cha mẹ, nó không nằm trong phạm vi văn
chương bác học, mà trở lại gần gũi và phổ cập
với đời sống con người qua bao thế hệ:
“Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.”
“ Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Nguyễn
Trãi, vị anh hùng dân tộc vào thế kỷ thứ mười
lăm, là một nhà quân sự, một nhà chính trị lỗi
lạc, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc, có
nhiều thi phẩm văn chương bất hủ. Trong tác
phẩm “Gia Huấn Ca” của ông, đã đề cao đạo đức,
luân lý trong mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình
và xã hội. Hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội
ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng
tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao
đội đức cao dày,
Phải lo
hiếu kính đêm ngày khăng khăng.”
(Nguyễn
Trãi, Gia Huấn Ca)
Còn
nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm.”
(Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Nguyễn Du, ông cũng là một nhà thơ
lớn của dân tộc, vào thế kỷ thứ mười tám, thấm
nhuần tư tưởng Phật Giáo, ông thường nói rằng
“ngã độc kim cang, thiên biến linh”, nghĩa là “Ta
đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang” Nguyễn
Du đã tiếp nhận hai nguồn văn hóa Ấn Độ và Trung
Hoa mà viết ra tác phẩm Truyện Kiều, ông đã đề
cao chữ hiếu với một tinh thần phóng khoáng, đặc
biệt đạo hiếu được nhấn mạnh và xem đó là nhiệm
vụ hàng đầu của con cái:
“Duyên
hội ngộ đức cù lao
Bên
tình bên hiếu bên nào nặng hơn,
Để lời
thệ hải minh sơn
Làm con
trước phải đền ơn sanh thành.”
Trong tư tưởng của ông đạo hiếu là
nét trinh lòng cao quý. Giữa thời đại phong
kiến, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, mà ông đã xây
dựng hình ảnh Thúy Kiều yêu Kim Trọng, hiếu với
mẹ cha, nhưng nàng sẵn sàng bán mình chuộc cha:
“Quyết
tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho
để thiếp bán mình chuộc cha.”
Thúy
Kiều đã hy sinh tất cả hạnh phúc cá nhân để làm
tròn Chữ Hiếu:
“Như
nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào
cho đục được mình ấy vay.”
Còn nữa:
“Xưa
nay trong đạo đàn bà
Chữ
trinh kia cũng có ba bảy đường.”
Thúy Kiều không vì tình yêu mà quên
đi bổn phận làm con, nàng đã có một thái độ dứt
khoát trong tình và hiếu, mặc dù bán mình, nhưng
Thúy Kiều vẫn giữ một tấm lòng trung trinh vì đã
thực hiện trọn vẹn chữ hiếu. Hơn thế nữa, Kiều
sẵn sàng khuyên em mình là Thúy Vân chung sống
với Kim Trọng, đó là một nghĩa cử cao đẹp và cao
thượng, một quan điểm tình yêu mới lạ trong thời
đại bấy giờ.
Cụ Nguyễn Đình Chiểu, một sĩ phu yêu
nước, thương dân vào thế kỷ thứ mười chín, không
màng danh lợi, rất đề cao tinh thần hiếu hạnh,
thể trong tác phẩm“Lục Vân Tiên.” Hình ảnh Lục
Vân Tiên trên đường đi thi trạng nguyên, nghe
tin mẹ mất, đã quay về chịu tang cho mẹ và ông
đã khóc lóc đến mù mắt. Lục Vân Tiên không vì
sự nghiệp của bản thân mình mà quên đi trách
nhiệm của người con khi cha mẹ qua đời.
Trong giáo lý đạo Phật, Đức Phật
Thích Ca, ngài là một bậc Thầy của trời người đã
thể hiện trọn vẹn về hạnh hiếu. Khi vua Tịnh
Phạn bệnh nặng, ngài đã về hoàng cung để thuyết
pháp cho vua cha. Trong kinh Địa Tạng có chép
rằng, Đức Phật còn lên cung trời Đâu Lợi thuyết
pháp cho mẹ là Thánh Mẫu Ma Gia. Ở trong Kinh
Vu Lan, hình ảnh Đức Mục Kiền Liên tiêu biểu một
đệ tử chí hiếu, vâng lời Phật dạy đã thực hiện
phép cúng dường Tam Bảo trong ngày rằm tháng bảy,
hồi hướng phúc đức cứu thân mẫu thoát khỏi địa
ngục khổ đau.
Kinh
Nhẫn Nhục có dạy rằng: "Ðiều thiện tối cao là
chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu."Các Kinh
khác có nhấn mạnh về ý nghĩa hiếu hạnh như sau:
"Có hai hạng người, này các Tỳ kheo,
ta nói không thể trả ơn được! Mẹ và cha. Nếu một
bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy
suốt đời, vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó cha
mẹ vãi tiểu tiện, cũng chưa làm đủ để đáp đền ơn
mẹ và cha." Kinh Tăng Chi I, trang 75.
Tinh thần hiếu hạnh Phật giáo thấm
nhuần trong văn hóa của dân tộc Việt nam, ca dao
có câu: “Dù ai buôn bán đâu đâu, cứ rằm tháng
Bảy mưa Ngâu thì về”. Rằm tháng bảy trong ký ức
mọi người là ngày xá tội vong nhân, phát tâm làm
lành lánh dữ, cúng dường Tam Bảo, cầu cho gia
quyến bình an và cầu nguyện cho hương linh cha
mẹ và tổ tiên quá vãng được sanh về cõi an lành.
Như vậy, Phật Giáo thực hiện rất sâu sắc hơn về
ý nghĩa đạo hiếu. Người Phật Tử làm tất cả các
thiện pháp để hồi hướng cho tổ tiên ông bà quá
vãng nhiều đời: “đa sanh phụ mẫu”, là nuôi lớn
tình thương bình đẳng vô ngã vị tha. Ý nghĩa ấy,
chúng ta còn phải có trách nhiệm với bao bậc mẹ
cha khác trên cuộc đời, vì giá trị rộng lớn của
chữ hiếu trong triết lý duyên sinh. Theo quan
điểm đạo Phật, hiếu thuận với cha mẹ là phải
hiếu thuận với tất cả mọi người. Đây là lý
tưởng sống cao đẹp không những dân tộc Việt Nam
mà các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới đều
yêu chuộng và giữ gìn.
|