Nghĩ Lúc Mẹ Ra Đi
Nguyễn Khương Trung
Tôi
câm lặng nhìn mẹ. Những đốt xương tay mẹ nhích dần lên, lẩy bẩy trong khoảng
không. Mẹ không còn đủ sức đưa thẳng cánh tay nữa rồi! Hai bàn tay mẹ run
rẩy úp lên trán, những ngón tay lần ngược xuống, quờ quạng tìm mắt, lập cập,
lập cập kéo mi mắt lên. “Mẹ muốn nhìn!” - em gái tôi tức tưởi gục đầu xuống
gối mẹ, người run lên từng đợt.
Mẹ đang đi nốt phần cuối
đời mình!
Những bà mẹ son sắt trong
quan niệm “lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng” của làng Khương Trung xưa
như mẹ tôi rồi còn lại được mấy người? Cuốn tiểu thuyết Đất Đình Gừng
dâng mẹ chưa kịp in. Tôi xót xa...
Chín anh em tôi quây lại,
ngơ ngác bên mẹ. Một bàn tay cứ siết mãi trên vai tôi. Chợt nhận ra người
anh cả năm nay đã 63 tuổi, chắc cũng trong tâm trạng giống tôi. Tôi siết
chặt tay anh. “Chín anh em mình lần lượt nằm trong bụng mẹ, không thể tin
được!”. Đấy là lời than thở của cô em út.
Nhìn lũ chúng tôi và nhìn
mẹ, quả là không thể tin được! Một bộ xương bọc da màu nâu tái nằm thiêm
thiếp. Mũi mẹ đã co lại, hơi vẹo sang một bên. Hàm trên của mẹ còn duy nhất
một chiếc răng cửa đã chìa ra, ấn một vệt lõm xuống môi dưới. Tôi cố tìm
những nét của cô Trâm thời trẻ trong Đất Đình Gừng trên gương mặt mẹ, nhưng
chịu. Bất giác tôi lại nhớ đến cô Ngát diệu vợi đã biến thành cụ Hàn Tiếu
trong truyện ngắn Cõi người ta của tôi. Không thể khác được, qui
luật là qui luật!
Thế hệ của mẹ đã đồng
hành cùng đất nước luôn phải đứng trước những thử thách, phải lựa chọn, phải
quyết định để khẳng định mình. 20 năm ấy đã bao lần mẹ trắng tay, mất cửa
nhà vì bom đạn. 20 năm mẹ sống trong nỗi phấp phỏng lo sợ mất chồng, mất
con. Hòa bình, mẹ vẫn một gánh hoa quả trên vai, lầm lũi kiếm từng đồng để
dấm dúi cho gia đình các “ông thầy giáo”, “ông kỹ sư” con của mẹ làm không
đủ ăn suốt thời bao cấp…
Mẹ tôi không biết chữ. Mẹ
thuộc Kiều là do nghe ông ngoại hay ngâm. Mẹ thích, ngâm theo rồi thuộc lúc
nào không hay. Còn ca dao tục ngữ vận vào cuộc sống hằng ngày thì người làng
Khương Trung ai chả thế - mẹ bảo vậy. Nhìn cô em sắp thành “bà tiến sĩ”, vừa
bay từ Philippines về, đang ngồi gục đầu bên mẹ, tôi cứ tự hỏi: “Nó đang
nghĩ gì?”. Tội nghiệp em tôi! Nó vẫn chưa kịp thực hiện ước mơ có một căn
nhà nhỏ ở Khương Trung để đón mẹ về sống với vợ chồng nó.
Không biết em tôi có còn
nhớ cái đêm đông ấy, một đêm đông trong xóm Trại, làng Song Lãng. Đấy là nơi
mẹ vừa gồng gánh đưa lũ con đến ở nhờ nhà bà Nhi để tránh bom đạn. Mẹ tôi
lại trắng tay. Đó không biết là lần thứ bao nhiêu mẹ trắng tay vì chiến
tranh. Ngôi nhà tôi trên phố vừa bị bom san phẳng. Mẹ một nách tám đứa con
nhỏ, còn ba tôi đang ốm liệt giường. Sau những trận đòn thù hồi là tự vệ
thành Hà Nội, ba tôi yếu lắm, cứ nắng lên là ông đau đầu. Ở nhà người ta mà
chồng ốm, con đông, kế sinh nhai thì đột ngột bị cắt đứt, mẹ tôi bị dồn vào
chân tường.
Đêm ấy, tôi chợt tỉnh vì
nghe tiếng khóc nho nhỏ từ bếp vọng lên. Lúc lâu, tôi nhận ra tiếng mẹ. Tôi
lần xuống bếp. Mẹ đang vừa khóc, vừa quấy nồi bánh đúc để bán vào phiên chợ
Giai sáng hôm sau. Thấy tôi, mẹ bỏ đôi đũa cả ôm tôi vào lòng, nức nở: “Mẹ
biết làm gì để nuôi các con ăn học đây”. Tôi khóc theo mẹ. Em gái tôi ngồi
phía trong khóc gào lên. Mẹ bỏ tôi ra, ôm nó. Cái ánh lửa bập bùng đêm đông
ấy tôi làm sao quên được. Bây giờ em tôi có còn nhớ?
Không biết chữ nhưng mẹ
tôi cương quyết cho các con học đến nơi đến chốn. Những người già trong phố
bây giờ vẫn kể về mẹ và đàn con ngoan của mẹ với lòng kính phục. Mẹ tôi nghĩ
gì mà chịu khổ dường ấy? Quả thật tôi cũng chưa thể hiểu nổi những suy nghĩ
của mẹ. Có điều chắc chắn tôi biết mẹ muốn chúng tôi đều trở thành những con
người có nhân cách, như tấm gương của thầy giáo Giao gần nhà mà mẹ thường
nhắc đến.
Mẹ đã chọn hướng đi cho
các con và dẫu phải chìm nổi mẹ vẫn kiên quyết thực hiện. Phải chăng đây
chính là hạnh phúc đời mẹ? Làm sao tôi quên được những lần mẹ đến xin khất
thầy giáo, cô giáo vì các con chậm tiền học phí, chậm đóng tre cho nhà
trường làm hầm hào, chưa có tiền mua túi thuốc phòng không cho con… để thầy,
cô đừng đuổi học các con mình.
Mẹ lại lặn lội, lo toan.
Các con mẹ vẫn được cắp sách tới trường. Ba tôi ốm đau quanh năm nhưng tôi
chưa bao giờ nghe mẹ than thân trách phận. Mẹ vẫn một lòng yêu thương, thuốc
thang chăm ba. Nhà túng thiếu nhưng bao giờ mẹ cũng dành một số tiền nho nhỏ
đưa ba giữ để ba yên tâm. Trong anh em tôi, liệu có ai đối xử với người thân
yêu của mình được như mẹ không?
Gốc phi lao trên con đê
vùng, lối rẽ vào chùa Ngàn ngày ấy, là nơi mẹ từng khóc anh tôi khi nghe tin
anh đã hy sinh trên chiến trường Quảng Trị. Sau mỗi ngày bươn chải kiếm sống,
mẹ đặt gánh ngồi khóc anh trước khi về nhà. Một lần, tôi tha thẩn chơi đã
gặp mẹ đang khóc ở đấy. Và bao nhiêu lần sau tôi đã cùng mẹ ngồi đây khi
trời gần tắt nắng. Mẹ chỉ khóc anh dưới cây phi lao này thôi. Về nhà mẹ
tuyệt đối cứng rắn trước sự đau đớn của ba.
Khi người anh lớn tôi
không được vào đại học vì gánh bún phở của mẹ vi phạm chế độ lương thực của
nhà nước, một lần nữa mẹ lại đứng trước sự lựa chọn giữa tương lai của con
và cách kiếm tiền nuôi gia đình. Mẹ lao đao chuyển sang bán nước chè, hoa
quả tươi. Ôi, mẹ tôi! Ấy thế mà tôi còn làm trái ý mẹ. Tôi là thằng không
biết nghe lời nhất trong những đứa con mẹ. Tôi cứ dứt khoát đi làm chứ không
chịu thi đại học vì sợ mẹ rồi sẽ thêm phần vất vả. Mẹ khổ sở vì tôi lắm.
Tôi có biết đâu rằng vì
không nghe lời mẹ, tôi đã trở thành đứa con mà suốt đời mẹ phải lo lắng. Mẹ
cứ đăm đắm dõi theo tôi, đăm đắm buồn phiền. Trong những ngày cuối cùng của
mẹ, một lần chợt tỉnh nhận ra tôi, mẹ thảng thốt: “Trung về đấy à con; làm
có đủ ăn không con?” rồi mẹ lại chìm đi...
NGUYỄN KHƯƠNG TRUNG

|