Quan Niệm Về Trợ Tử Của Đạo Phật
Nguyễn Phúc Bửu Tập
Gần
đây, trên thế giới nhất là tại Mỹ dư luận bị kích động vì vài người y sĩ
công khai tham gia hành động "trợ tử" (Euthanasia), và chấp nhận trách nhiệm,
tự ý đưa tay vào còng của cảnh sát, hầu như thách đố pháp luật. Dư luận quần
chúng rất phân tán, kẻ chê vô lương, người thì yểm trợ và đặc biệt là các
tôn giáo lớn trong nước đều lên tiếng xác định lập trường. Câu hỏi ta tự đặt
ra để tìm hiểu là lập trường của đạo Phật trong một vấn đề nặng về đạo đức,
triết lý như vấn đề trợ tử, đã được đức Phật ngày xưa và kinh điển của Ngài
để lại minh định như thế nào.
Trước tiên, ta sẽ tìm hiểu rõ danh tự; kế đến
ta tìm hiểu nhận định phân tích quan điểm của đạo Phật, để hướng việc học
đạo Phật vào hệ thống, ngữ vựng trong bài sưu khảo nhỏ này sẽ dựa vào các
cuốn Phật học Từ điển hiện đã xuất bản.
Trợ tử (Euthanasia: tiếng Anh; Euthanasie:
tiếng Pháp) là "sự làm cho người sắp chết ngủ mê đi, làm cho chết bình an" (Đào
Duy Anh). Trong bài này, ta dùng danh tự trợ tử cho gọn, trợ có nghĩa là
giúp đỡ. Ý niệm chấp nhận hay ngăn cấm trợ tử đã có từ xưa. Trong kinh Do
Thái Talmud đã có nói tới, rồi đến triết gia Plato trong sách Republic và
triết gia Thomas More trong sách Utopia (thế kỷ mười lăm), nhưng người đầu
tiên dùng danh tự và phân tích căn nguyên vấn đề là W.E.H. Leckey, học giả
về đạo đức và luân lý học, trong một bài báo viết năm 1869, tại Luân Đôn.
Nói chung, tóm lược ý kiến người đi trước và
dùng phương cách phân loại, ta ghi nhận được các điểm sau: Trên bề mặt dữ
kiện, một con bệnh đến giai đoạn cuối cùng của việc điều trị, đau đớn cực độ,
được một người y sĩ hay một người hành nghề điều trị chấm dứt tình trạng đau
đớn bằng một phương tiện nhẹ nhàng, cứu rỗi, đó là hành động trợ tử. Trường
hợp thứ nhất con bệnh đã mất hẳn khả năng hiểu biết kéo dài đời sống là làm
triền miên mối thương tâm, người y sĩ điều trị và thân thuộc của con bệnh
dùng phương pháp nhẹ nhàng kết liễu đời sống. Ở đây, ta gọi là trợ tử tiêu
cực (negative euthanasia), đứng vào cương vị của con bệnh, không hay biết sự
chết của mình. Trường hợp thứ hai, con bệnh còn đủ khả năng tâm trí, và
chính y yêu cầu được chấm dứt đau đớn bằng phương tiện trợ tử, ta gọi là trợ
tử tự nguyện (voluntary euthanasia).
Trong cả hai trường hợp, người chủ trương
việc trợ tử đều có ý đồ sát sinh, dù cho ý đồ nhuốm màu sắc nhân đạo tới cực
độ. Trường hợp thứ hai giảm khinh hơn vì nạn nhân yêu cầu, nhưng sự kiện vẫn
là mưu giúp một người cận tử tự sát.
Một điểm được ghi nhận nữa là ngày trước, ý
niệm và hoạt động trợ tử chỉ nằm trong lãnh vực y khoa, và mọi việc phán
đoán hoạt động của người y sĩ trợ tử, phần nhiều là kín đáo, đều nằm trong
vòng đạo đức y tế. Ngày nay, vấn đề đã lan qua nhiều lãnh vực khác trong đời
sống.
Nhìn vào quan điểm của đạo Phật đối với hành
động trợ tử, chúng ta phải khẳng định ngay từ bây giờ - không buông lung
hành động kết liễu đời sống của chính mình và của kẻ khác, nhưng lý luận
giải thích việc ngăn cấm hành động trợ tử, đạo Phật nhìn sát vào sự thật,
nhận chân là muôn vật, trong đó có con người, tha thiết vô cùng với sự sống
và vì lẽ đó, mỗi sinh vật đều có quyền sống tự do theo đức hiếu sinh, không
bị chế trị. Muốn thực hiện đời sống tự do, cá nhân không có quyền hãm hại
đời sống của tha nhân. Đi tới được nguyên tắc cao đẹp đó, Phật dạy con người
phải học đức nhẫn nại (ahimsa.ksanti), từ bi (karuna), để không làm hại đời
sống của những người chung quanh.
Đạo Phật không xem con người là một cá thể
riêng biệt, mà xem con người là một thành phần cơ hữu, toàn nguyên
(integral) của một cộng đồng xã hội. Giáo lý đạo Phật không bao giờ tách con
người ra khỏi môi trường gia đình và cộng đồng. Thế cho nên khi ta hủy hoại
đời sống của một cá nhân, không những ta hãm hại riêng cá nhân đó, mà ta đã
ảnh hưởng trên cấu trúc của cộng đồng xã hội.
Viện vào hai mối lập luận trên, giáo lý đạo
Phật không chấp nhận hành động trợ tử. Thế nhưng ta đã nghe rất nhiều là căn
bản của đạo Phật là nhân ái, tình thương. Vậy, có thể nào thấy việc đau khổ
tới mức cùng cực mà người tin Phật lại ngoảnh mặt làm ngơ? Giáo lý nhà Phật
giải thích làm sao mối mâu thuẫn này?
Đạo Phật tránh hành vi trợ tử không dựa vào
nền tảng thực tiễn, mà dựa vào căn bản đạo đức và hướng linh. Đạo Phật đặt
đời sống trong khung cảnh luân hồi (samsara). Đời sống của muôn vật (trong
đó có con người) không chỉ khởi đầu lúc âm dương phối hợp để sinh sản; đời
sống này cũng không chấm dứt khi cơ thể tan rã, hủy diệt. Cho tới khi đời
sống được khai phóng, giải thoát khỏi vòng luân hồi, nó sẽ luôn luôn tiếp
nối như một ngọn triều xô đẩy không ngừng. Trong chuỗi dài vô tận của luân
hồi, đời sống hiện tại chỉ là một mấu, một khúc nhỏ. Và con người trong đời
sống hiện tại không những bị chi phối bởi các yếu tố sinh lý, xã hội, kinh
tế, môi sinh... mà còn bị chi phối bởi một yếu tố muôn vàn lần quan trọng
hơn là yếu tố tâm lý vô hình gọi là nghiệp (karma).
Nghiệp theo người như bóng với hình: "có một
nghìn con bò đang ăn ngoài đồng, vậy mà một con bê bé nhỏ đi lạc cũng tìm
được ngay đến con bò mẹ", con người không thoát được nghiệp. Nghiệp là hành
động; hành động kiếp trước tạo ra đời sống kiếp này; nghiệp kiếp này chi
phối đời sống kiếp sau. Cuộc đời hiện tại là một khúc nhỏ của chuỗi dài luân
hồi kết bằng đau khổ (dukkha), bệnh hoạn (tiếng Phạn là vyadhi), chỉ là một
khía cạnh của dukkha, tập đế số một trong "tứ diệu đế". Như vậy, trong quá
trình luân hồi, cái chết hiện tại chỉ là một biến cố gián đoạn tạm thời của
dukkha, vì dukkha sẽ tiếp diễn trong kiếp sau. Không có gì đảm bảo được kiếp
sau của ta sẽ tránh được đau khổ, vì đau khổ do nghiệp tích lũy từ muôn đời
trước tạo ra.
Hiểu được vậy, thì tránh khổ đau hiện tại
bằng cách tạo được cái chết sớm hơn (trợ tử tình nguyện), hay giúp người
khác sớm chết vì không muốn nhìn thấy đau khổ (hành động trợ tử tiêu cực)
cũng chỉ là những hành động vô bổ, thiếu thực tế, không đưa kiếp người đến
đâu.
Trình bày quan điểm nhà Phật không tán thành
hành động trợ tử, nặng tính cách lý thuyết. Nhưng thông thường những bài
thuyết giảng của đức Phật không phải chỉ thuần túy lý thuyết mà lại được rút
ra từ những trường hợp cụ thể. Học giả Phật giáo S.K. Nanayakkara sưu khảo
trong tạng Vinaya Pitaka (quyển II) có những trường hợp cụ thể đức Phật phán
quyết về hành động trợ tử.
Trường hợp thứ nhất là một biến cố trợ tử tập
thể (Encyclopaedia of Buddhism, Vol IV). Trong tăng đoàn, một hồi có năm vị
tỳ kheo hiểu sai kinh điển, cho là thể xác của mình không tinh khiết, muốn
thoát ly đời sống. Họ đi tìm một tay tà đạo tên là Milagandika đã trà trộn
vào sống trong tăng đoàn làm ăn, bán bình bát và áo tràng cho tu sĩ. Họ nhờ
y giúp cho họ tìm phương cách tự vẫn. Sự việc bị bại lộ, đến trước đức Phật.
Ngài dạy: "Người tỳ kheo nào đã chủ tâm kết liễu đời sống kẻ khác, người
đó là kẻ thất bại (parajika), không có thiện căn và phải bị loại ra khỏi
tăng đoàn (asamvasa)".
Trường hợp thứ hai là một biến cố vô kỷ luật
của sáu người tỳ kheo xúi dục người đang có chồng bị bệnh nặng gần chết, kết
liễu đời sống của chồng. Sự việc đến tai đức Phật, Ngài dạy: "Kẻ nào đã
chủ tâm kết liễu đời sống của tha nhân, lại bày vẽ nên chết khỏe hơn sống
bệnh cực hình, kẻ đó không có thiện căn (parajika) và phải loại ra khỏi tăng
đoàn (asamvasa)".
Trường hợp thứ ba cũng ở trong tạng Vinaya,
thuật lại một hành động trợ tử điển hình. Một vị tỳ kheo quá già yếu, mắc
bệnh nan y, đau khổ triền miên. Ông nhờ bạn đồng môn và họ vì lòng nhân đạo
đồng ý giúp đỡ cho ông sớm chết. Sự việc đến đức Phật và Ngài dạy là những
kẻ giúp giết người đã thiếu căn tu. Tuy trường hợp giảm khinh vì tấm lòng
nhân ái, nhưng tội lỗi vẫn rõ ràng. Đức Phật nhấn mạnh là ý đồ đạo đức muốn
giúp tha nhân không đủ, cần phải xét đến kết quả của hành động (vipaka),
thật sự là sát nhân.
Vậy ta thấy rõ giáo lý của đức Phật rất
nghiêm túc trong vấn đề hành động trợ tử. Tạng Vinaya được đức Phật giảng
dạy trong đời sống tăng đoàn, nhưng chắc chắn là đối với cư sĩ tại gia và
tín đồ nói chung cũng phải được áp dụng. Nhưng cho đến bây giờ ta vẫn không
có câu trả lời thiết thực cho câu hỏi là sự mâu thuẫn giữa nỗi đau đớn của
con bệnh và thái độ dửng dưng không can thiệp vì giáo lý cấm đoán. Trên thực
tế, giáo lý nhà Phật có một phương cách được đem ra sử dụng tránh hành động
trợ tử. Đó là việc hành tri đạo đức, tạo cho con người một cái nhìn cởi mở,
không quá gắn bó với tục lụy. Nhờ thái độ sẵn có đó mà trước cơn đau khổ khi
gần lâm chung, mỗi cá nhân giữ được bình thản tự tại. Cũng nhờ thái độ sẵn
có này mà người đứng ngoài biết nhìn với cảm thông, biết chia sẻ đau khổ mà
không phạm tội sát nhân.
Giáo lý nhà Phật đến nay sở dĩ còn tồn tại
vững mạnh và thường thích ứng được vào hoàn cảnh xã hội mới chính là vì nhờ
lời dạy của đức Phật ít gò bó, rất linh động và dễ tập quán vào hoàn cảnh
môi sinh. Có điều là trên thực tế, hiện tại các tôn giáo lớn ngoài đạo Phật,
nhờ có nhất trí trong hệ thống lãnh đạo và quản trị, nhờ có tổ chức liên
minh hữu hiệu từng quốc gia, từng lục địa cho nên dễ kịp thời thay đổi việc
áp dụng giáo lý khi nhu cầu đòi hỏi. Đạo Phật thiếu hẳn một cơ cấu tổ chức
như vậy, thành ra lập trường của đạo Phật trên những vấn đề thiết yếu ngày
nay tuy không bảo thủ mà thành ra bảo thủ (vì thiếu điều chỉnh), tuy có thể
đứng mà không ai nhìn thấy. Đó phải là một mối ưu lo chánh đáng cho những
người chỉ đạo Phật giáo ngày nay.
|