ĐẠT-LAI
LẠT-MA LÀ AI?
Đạt-Lai Lạt-Ma (達賴喇嘛)
(ཏཱ་ལའི་བླ་མ་)
là danh hiệu của một nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc
trường phái Cách-Lỗ
(格魯派,
gelugpa)
hay còn gọi
là Hoàng mạo phái (黃帽派)
tức phái mũ vàng.
Đạt-Lai Lạt-Ma là
đọc theo
phiên âm Hán
Việt (達賴喇嘛). "Đạt-Lai"
có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là "biển cả" còn "Lạt-ma" là từ tiếng Tây Tạng
được dịch từ tiếng Phạn “guru”
là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. "Đạt-Lai Lạt-Ma" có nghĩa là "Đạo sư
với trí huệ như biển cả". Trong lối dùng hàng ngày nhiều người còn dùng
từ
Phật
sống (hoạt Phật)
để chỉ Đạt-Lai Lạt-Ma.
Danh hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma được vua
Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách-Lỗ
(còn gọi phái
Hoàng giáo) vào
năm 1578. Kể từ 1617, Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính
trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người Tây Tạng xem Đạt-Lai Lạt-Ma
là hiện thân của Bồ tát
Quán Thế Âm,
và Ban-Thiền Lạt-Ma
(Panchen Lama)
là người phụ chính. Mỗi một Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là
tái sinh của vị trước.
Tính đến nay Phật giáo Tây Tạng đã có 14 vị
Đạt-Lai Lạt-Ma lãnh đạo
phái Cách-lỗ như sau:
1,
Căn-đôn Châu-ba
(根敦珠巴,
Gendun
Drub,
1391-1474)
2,
Căn-đôn Gia-mục-thố
(根敦嘉穆錯,
Gendun
Gyatso, 1475-1542)
3,
Toả-lãng Gia-mục-thố
(瑣朗嘉穆錯,
Sonam
Gyatso,
1543-1588)
4,
Vinh-đan Gia-mục-thố
(榮丹嘉穆錯,
Yonten
Gyatso,
1589-1616)
5,
La-bốc-tạng
Gia-mục-thố
(羅卜藏嘉穆錯,
Losang
Gyatso,
1617-1682)
6,
Thương-ương
Gia-mục-thố
(倉央嘉穆錯,
Jamyang
Gyatso,
1683-1706)
7,
Cách-tang
Gia-mục-thố
(格桑嘉穆錯,
Kelsang
Gyatso,
1708-1757)
8,
Khương-bạch
Gia-mục-thố
(姜白嘉穆錯,
Jampel
Gyatso,1758-1804)
9,
Long-đa Gia-mục-thố
(隆多嘉穆錯,
Lungtog Gyatso, 1806-1815)
10,
Sở-xưng Gia-mục-thố
(楚稱嘉穆錯,
Tsultrim Gyatso, 1816-1837)
11,
Khải-châu
Gia-mục-thố
(凱珠嘉穆錯,
Kedrub Gyatso, 1638-1856)
12,
Xưng-lặc Gia-mục-thố
(稱勒嘉穆錯,
Trinle Gyatso, 1856-1875)
13,
Thổ-đan Gia-mục-thố
(土丹嘉穆錯,
Tubten Gyatso, 1876-1933)
14,
Đăng-châu
Gia-mục-thố
(登珠嘉穆錯,
Tenzin Gyatso, 1933-nay)

ĐỨC
ĐẠT LAI LẠT MA THỨ XIV
HIS HOLINESS THE XIV THE DALAI
LAMA
(
登珠嘉穆錯
- Tenzin Gyatso )
  
Nguyên quán & cơ
duyên
Ngài
chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày
6/7/1935 (Ất Hợi) trong một
gia đình nông dân. Tên trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt-Lai Lạt ma
thứ 14 là "Lhamo Dhondup". Ngài
được thừa nhận là Đạt-Lai Lạt-Ma vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng
như là Hoá thân của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13.
Theo truyền thống của người Tây
Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn
con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu
Đạt-Lai Lạt-Ma cũng được hiểu là Hộ Tín, "Người bảo vệ đức tin" (Defender
of the Faith), Huệ Hải, "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of
Wisdom), Pháp vương, "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma),
Như ý châu, "Viên bảo châu như ý" (Wishfulfilling Gem)...
Đạt-Lai Lạt-Ma được tấn phong tước
vị vào ngày 22/2/1940
tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và
tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng.
Quá trình tìm kiếm
Đạt-Lai Lạt-Ma
Khi Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 viên
tịch vào năm 1933,
chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế.
Năm 1935,
vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ
thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi
việc ở tương lai từ hồ linh thiêng này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba
chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma hiện lên giữa mặt nước trong
vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba
tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm
1937, chính phủ Tây Tạng đã
gởi những hình ảnh thiêng liêng từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng
để tìm kiếm nơi tái sinh của Đạt-Lai Lạt-Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh
được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là
Lạt-ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến
làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ
thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt-ma
Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc
máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt-ma Kewtsang có mang một xâu tràng hạt (rosary)
của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu
cầu được cầm xem. Lạt-ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai.
Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera
aga", nghĩa là "Lạt-ma ở tu viện Sera". Tiếp đó, sư hỏi chú bé vị trưởng
đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng, và chú cũng cho biết tên chính xác của
người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa
những đồ dùng thường ngày của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra
tất cả và nói: "của tôi, của tôi". Chú bé ấy chính là Đạt-Lai Lạt-Ma hiện
nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra
này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng
được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy
dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh limdo,
nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện
lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu
viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng
phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13.
Quá trình tu học tại
Tây Tạng
Đạt-Lai Lạt-Ma bắt đầu sự nghiệp
học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật giáo
Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ Phật
học
(Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm
1959. Năm 24 tuổi,
Ngài
đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và
Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời
gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó
Ngài
phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (logic) văn hóa và nghệ
thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (sanskrit), Y
học (medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy).
Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là
Bát-nhã-ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā), Trung quán (mādhyamika),
Giới luật (vinaya), A-tỳ-đạt-ma và Lượng học (pramāṇa).
Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thi ca (poetry),
âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology),
văn phạm (metre and phrasing).
Vai trò và trách
nhiệm lãnh đạo
Vào ngày
17/11/1950, Đạt-Lai Lạt-Ma
14 đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người
dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng
80.000 quân lính của Trung Quốc
tấn công vào Tây Tạng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma (bìa phải) gặp gỡ Mao Trạch Đông (ngồi giữa) năm 1954

Đức Ban Thiền Lạt Ma, Mao Trạch Đông và Đức Đạt Lai Lạt Ma

Đức Đạt Lai Lạt Ma và Mao Trạch Đông
Năm
1954,
Ngài
đã đến Bắc Kinh
để thương thuyết hòa bình với Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa
khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong
chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng
Ngài
đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài.
Đào thoát khỏi Tây
Tạng
Nỗ lực mang lại một giải pháp hòa
bình của Ngài
cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm
quyền Bắc Kinh. Cũng trong lúc đó, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng
lên kháng cự mạnh mẽ chống đối sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã
lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày
10/3/1959, một cuộc biểu
tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh
lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một
quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn
của quân đội điên cuồng của Hoa lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết
chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất
nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây
Tạng cùng với Đạt-Lai Lạt-Ma 14 vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại
miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
Chính phủ lưu vong
tại Dharamsala, Bắc Ấn Độ
Ngày nay, với hơn 120.000 người
Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ,
được biết như là một "Lhasa nhỏ", lập thành một chính quyền lưu vong Tây
Tạng với một Hội đồng Dân cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People's
Deputies) vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong,
Đạt-Lai Lạt-Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ
lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua
tại Hội đồng Lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm
1959, 1961 và
1965, kêu gọi nhà cầm quyền
Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của
họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma thấy
rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của
Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được
tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Đại học Tây Tạng
được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại
Ấn Độ để tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây
Tạng.
Năm 1963, Đạt-Lai Lạt-Ma
đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn
dựa trên giới luật của nhà Phật và bản Hiến chương
Nhân quyền của Liên hiệp quốc để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước
Tây Tạng tự do ở tương lai.
Năm 1965,
Ngài
đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng
Ấn Độ là ông Jawaharlal Nehru, và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây
Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội
Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc
hội. Đạt-Lai Lạt-Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng
là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài cũng nói thêm, khi Tây
Tạng giành lại nền độc lập, Ngài
sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.

Năm 1987, Đạt-Lai Lạt-Ma
tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô
Washington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương
trình Hòa bình Năm điểm bao gồm:
1,
Biến Tây Tạng thành một khu vực
hòa bình;
2,
Chấm dứt việc di dân Trung Hoa
đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng;
3,
Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do
và quyền làm người của dân Tây Tạng;
4,
Phục hồi và bảo vệ môi sinh của
Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất
vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên
tử; và
5,
Khởi sự thương thảo ngay về quy
chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.
Ngày 15/6/1988,
tại Strassbourg
- Pháp,
Ngài nhắc lại Chương trình Hòa bình
Năm điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây
Tạng. Ngày 9/10/1991,
trong khi phát biểu tại Đại
học Yale -
Hoa Kỳ, Ngài
bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình
chính trị nơi ấy. Ngài
nói: Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nổ. Tôi muốn
làm cái gì đó để chận đứng lại... chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội
mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết.
Một Tu sĩ Phật Giáo bình
thường
Dù được xem là một vị
hoá thân, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma 14 thường
nói rằng: “Tôi
chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém”
(I am just a simple Buddhist monk - no more, no less). Sống trong một tịnh
thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài
thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời
khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các
khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.

Một
vài website tham khảo
http://www.dalailama.com/
http://www.dalailama.emory.edu/
http://www.tibet.com/DL/index.html
http://en.wikipedia.org/wiki/Dalai_Lama
Hai bộ phim nói về cuộc đời Ngài
Dalai Lama XIV
Kundun

Seven Years in Tibet
 |