I have consistently told the Chinese that religious freedom is in their nation's interest. I've also told them that I think it's in their interest to meet with the Dalai Lama and will say so at the ceremony today in Congress… If they were to sit down with the Dalai Lama they would find him to be a man of peace and reconciliation. And I think it's in the country's interest to allow him to come to China and meet with him…" President George Walker Bush said in the Dalai Lama receives Congressional Gold Medal on 17th October 2007.

 

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma được Chính Phủ Hoa Kỳ

Trao Tặng "Congressional Gold Medal"

Theo Việt Báo

 

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama XIV), vị lãnh đạo Phật giáo và cũng là nhà lãnh đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng nói: "Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam". Ngài đã nói như vậy khi "phái đoàn" của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.  

Quốc Hội Hoa Kỳ, với 387 Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ đã thông qua dự luật sẽ trao tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma Congressional Gold Medal. Đây là huy chương cao quý nhất dành cho người dân sự. Trước Ngài chỉ có Tổng Thống George Washington, Pope John Paul II, và những người được Giải Nobel như Nelson MandelaElie Wiesel được huy chương này.

Huy chương cao quý nhất này được trao tặng cho Đức Đạt-Lai Lạt-Ma là để vinh danh những đóng góp, vận động lâu dài, nổi bật cho hòa bình, nhân quyền khắp thế giới và những cố gắng tìm giải pháp không bạo động cho vấn đề Tây Tạng qua những cuộc đối thoại với những nhà lãnh đạo Trung Cộng.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 14 sẽ viếng thăm Washington, D.C.và được trao tặng huy chương Congressional Gold Medal vào lúc 1 giờ trưa ngày 17 Tháng 10, 2007 ở Rotunda, U.S. Capitol và sẽ thuyết giảng sau đó ở West Lawn Quốc Hội Hoa Kỳ. International Campaign for Tibet sẽ phụ trách nhiều chương trình ở đây từ 11 giờ sáng đến 4 giờ chiều.

Được biết Đức Đạt-Lai Lạt-Ma năm nay 72 tuổi. Ngài sinh ngày 5 Tháng 5 năm Ất Hợi (16/7/1935) tại làng Takster trong vùng Ambo ở Miền Đông Bắc Tây Tạng và Ngài được đặt tên là Lahmo Dhondup. Khi chú bé Dhondup được hai tuổi thì gia đình ngỡ ngàng đón tiếp một phái đoàn từ điện Potala của kinh đô Lhasa đến.

Khi chú bé Dhondup làm một số thử nghiệm theo lời yêu cầu của phái đoàn Lhasa, phái đoàn xác nhận điều mà họ đã cảm biết được từ những chỉ dạy bí hiểm của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 trước khi Ngài viên tịch. Chú Bé Dhondup được công nhận là hóa thân tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

Hai năm sau, lúc 4 tuổi chú bé Lahmo Dhondup được long trọng rước về Lhasa và được tấn phong là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 14 ngày 22/4/1940, với Pháp danh là Jetsun Jamphel Ngawang Lobang Yehe Tenzin Gyatso.

Vào mùa Xuân năm đó, dọc đường cả ngàn vị Tăng và dân chúng Tây Tạng đứng hai bên chào mừng Ngài, họ rất vui mừng và chú bé thì bàng hoàng vì từ nay đời chú sẽ đổi khác.

Đến năm 1949 Trung Hoa trở thành Trung Cộng. Tháng 10/1950 Quân của Mao Trạch Đông tiến vào Tây Tạng, năm ấy Đức Đạt-Lai Lạt-Ma mới 15 tuổi, chưa hoàn tất tu chứng để trở thành một vị sư và cũng chưa hiểu gì ở thế giới bên ngoài nhà chùa và cung điện Tây Tạng. Nhưng trách nhiệm với đạo và đời thì đã nặng trĩu trên vai và tràn đầy trong trí Ngài từ đấy.

Năm 1950, Ngài mới 15 tuổi, được đăng quang là Quốc Trưởng và là người lãnh đạo Tây Tạng, cũng là năm Tây Tạng bị cuốn vào trận cuồng phong của Trung Cộng với hai làn sóng dữ. Một là chủ nghĩa Cộng sản không dung thứ vai trò của tôn giáo, Phật Giáo, và hai là Trung Cộng muốn đồng hóa Tây Tạng vào cộng đồng Trung Hoa. Tây tạng sẽ là một phần nhỏ của Trung Cộng.

Trong mười năm liền kế tiếp Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã phải vừa hoàn tất việc tu học để trở thành một vị sư - một tiến trình nhiều gian khổ và khó khăn cho trí tuệ, lại vừa học hỏi về thế giời bên ngoài với trách nhiệm lãnh đạo một quốc gia. Nhà sư Tensin Gyatso bàng hoàng khi nghe Mao Trạch Đông cho Đạo Phật là một thứ độc dược của con người và kế hoạch phát triển Tây Tạng trong cuộc Cách Mạng Vô Sản.

Cả đạo và đời đều bị đe dọa. Khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hoàn tất bằng Tiến Sĩ Phật học thì cũng là lúc Tây Tạng bị thôn tính.

Đêm 17/3/1959 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cải trang thành thường dân cùng một số nhỏ trong triều đình trốn khỏi Lhasa và băng rừng vượt núi tìm đường thoát ra ngoài.

Từ đấy Trung Hoa cũng như Tây Tạng trải qua những biến động do Mao Trạch Đông đề xướng như cải cách ruộng đất, chiến dịch tiêu diệt bọn khuynh hữu, cách mạng văn hóa… kéo dài hơn một phần tư thế kỷ, trong số 20 đến 70 triệu người bị giết có hơn một triệu người Tây Tạng (15%). Có chừng 100 ngàn người Tây Tạng lưu vong, tản mác đi khắp năm Châu. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã xây dựng lại hai thực thể là cộng đồng lưu vong cho hiện tại và cho dân tộc Tây Tạng tương lai.

Tại vùng đất Dharamshala của Ấn Độ, dưới sự hướng dẫn của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma cộng đồng ấy đã mở một kỷ nguyên vận động quốc tế chưa từng thấy trong lịch sử Tây Tạng và đạt được những kết quả chưa từng thấy từ nhiều cộng đồng lưu vong khác.

Kể về lực thì thật ra cộng đồng Tây Tạng lưu vong không đông mà cũng chẳng giàu, nhưng nói vế thế thì cộng đồng này có sức tác động hiếm có ở nhiều diễn đàn khác nhau, đó chính là nhờ vị lãnh đạo tinh thần của họ, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 14.

 Cách đây 20 năm vị lãnh đạo Tây Tạng mở một chiến dịch ngoại giao ở diễn đàn của Quốc Hội Hoa Kỳ bằng kế hoạch Hòa Bình Năm Điểm nhằm kêu gọi Bắc Kinh cùng hợp tác để biến Tây Tạng thành khu vực hòa bình, tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng, tôn trọng môi sinh Tây Tạng. Và quan trọng nhất là mở ra việc đối thoại với Tây Tạng.

Năm sau Tây Tạng tiến xa hơn trên mặt trận ngoại giao khi đề nghị trước Quốc Hội Âu Châu tại Strabourg một số điểm chiến lược là Tây Tạng không đòi độc lập nhưng yêu cầu được quyền tự trị, với chính quyền dân cử do dân bầu lên và sống chung hòa bình với Trung Cộng.

Những thử thách chính trị càng trở nên nguy ngập như vụ Thiên An Môn, hàng ngàn người bị thảm sát, lúc đó người dân Tây Tạng mới hiểu vì sao Đức Đạt-Lai Lạt-Ma kêu gọi dân chúng phải đấu tranh bất bạo động và muốn thảo luận chuyện hòa giải với Trung Cộng.

Năm 1989 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Đối với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, giải thưởng Nobel vinh danh Ngài nhưng có nghĩa là thế giới công nhận và ủng hộ cuộc đấu tranh có chính nghĩa của nhân dân Tây Tạng.

Trải qua gần nửa thế kỷ, từ năm 1967 đến nay Đức Đạt-Lai Lạt-Ma 14 đã thăm viếng gần năm mươi quốc gia, gặp gỡ hầu hết các vị lãnh đạo dân chủ của thế giới. Đối với Trung Cộng thì đây là một khiêu khích không thể chấp nhận được vì Đức Đạt-Lai Lạt-Ma không phải là Quốc trưởng của một quốc gia, Tây Tạng chỉ là một đặc khu của Trung Quốc. Ngài cũng là một vị Tăng Thống đã hân hạnh được gặp ba vị Đức Giáo Hoàng của Giáo Hội Công Giáo Hoàn vũ (Paul VI, John Paul II và Benedictine).

Nhờ nhân cách đặc biệt của Ngài mà cuộc đấu tranh bền bĩ của người Tây Tạng mà ngày nay Tây Tạng đã trở thành vấn đề của Thế Giới và Trung Quốc.

Người Tây Phương thường lý luận rằng sở dĩ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma chủ trương đấu tranh bất bạo động là vì Ngài chịu ảnh hưởng tinh thần bất bạo động của Thánh Mahatma Gandhi. Thật ra chiến lược đấu tranh bất bạo động xuất phát từ cái tâm Từ Bi của một nhà tu hành. Nhất là Ngài được thế giới coi là hóa thân của một vị Bồ Tát mà người Việt gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát, là vị Bồ Tát của Từ Bi, một đức tính của Nhà Phật. Ngài thông cảm với những người có tinh thần đấu tranh quyết tử, nhưng tâm từ bi thì luôn hướng về sự thuyết phục hòa bình.

Nhìn về quê hương Tây Tạng, Ngài là một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn ra thế giới bên ngoài, Ngài là người có công hoằng pháp vĩ đại nhất của Phật giáo. Thông điệp về hòa bình và từ bi của đạo Phật đã như những giọt nước cam lồ tưới mát cho hiện trạng nóng bỏng của thế giới ngày nay. Chưa khi nào sức bành trướng của Phật Giáo mạnh mẽ như ngày nay, một phần nhờ vào Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, vị Tăng Thống Phật Giáo Tây Tạng. Ngài được coi như một Đức Giáo Hoàng của Phật Giáo.

Ảnh hưởng của Ngài không chỉ hạn hẹp trong lãnh vực chính trị của Tây Tạng mà trong cách suy nghĩ và cách sống của rất nhiều người qua những luận giải của Ngài về Phật Giáo. Luận giải của Ngài giúp nhiều người thức tỉnh và nhớ tới ánh sáng Từ Bi của Đạo Phật, trong thế giới âm u ngày nay.

Ngoài việc nhấn mạnh đến Từ Tâm như một bản sắc rực rỡ của Đạo Phật, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma còn hiện đại hóa Phật Giáo cho Thế Kỷ XXI. Ngoài hai đóng góp lớn về lòng Từ Bi và tinh thần hiện đại hóa, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma còn thể hiện đức tính cung kính và khiêm nhường.

Là một nhà lãnh đạo lưu vong, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thấu hiểu tâm trạng của những người Việt lưu vong. Thế giới ngày nay đầy dẫy những oán thù, xung đột và cả khủng bố, Ngài đề cập đến vấn đề Việt Nam như sau. Tinh thần Tây Tạng không chỉ là ý thức chính trị, là lòng khát khao tự do, mà cũng là một sức mạnh tâm linh nhắm vào sự giải thoát bằng lòng từ bi. Lòng từ bi là chân tánh của chúng ta. Trong nhiều hoàn cảnh, chân tánh ấy có thể bị đe dọa. Khi để thù hận nổi lên, mình đánh mất lòng từ bi, nghĩa là mình đã thua. Sự giác ngộ giúp chúng ta vượt chặng đường khổ ải mà vẫn giữ được từ tâm đối với những người làm mình khổ.

Nói về Phật tử, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khuyên đừng nghĩ tới việc xây chùa hay sự giải thoát cho bản thân mình dưới mái chùa. Ngài cảnh tỉnh các Tăng Ni là phải mở rộng ra thế giới tri thức bên ngoài, đừng chấp vào những lễ tục bí hiểm trong chùa với chiêng trống om xòm. Hãy bước ra khỏi chùa, tham gia vào các sinh hoạt xã hội. Từ đó mình hiểu được các vấn đề của xã hội, của con người và tìm ra những giải đáp cho các vấn đề ấy bằng giáo lý Phật Giáo. Và trong mọi hoàn cảnh, tình huống, không bao giờ đánh mất lòng từ bi của mình. Nuôi dưỡng từ tâm chẳng những có lợi cho sức khỏe bản thân mà còn ích lợi cho đời sống và cho hòa bình của nhân loại.

Nói về Việt Nam Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viết trong một thông điệp gởi cho Việt Báo: "Dân Tộc Việt Nam cũng đã trải qua một chấn động lớn trong Thế kỷ XX và đã vượt qua rất nhiều thử thách như dân Tây Tạng. Tôi tin rằng cùng chịu ảnh hưởng rất nhiều của Phật Giáo, hai nền văn minh Tây Tạng và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng. Mỗi nền văn minh lại có một lịch sử lâu dài, đa sắc đa diện và ngay trong hiện tại, nền văn hóa phong phú mà thực chất là sự hiếu hòa của chúng ta hàm chứa một khối kinh nghiệm hữu ích nếu được quảng bá cho các nền văn minh khác".

Theo Việt Báo

 

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008