ĐỨC PHẬT ĐÃ CỨU SỐNG
TÔI
Nguyên tác:
Eiko
Sugimoto
Chuyển ngữ:
Hoà
thượng Thích Trí Chơn
Lời người
dịch:
Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động,
xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây. Bà Eiko
Sugimoto, mắc chứng bệnh Minamata, toàn thân bị
tê liệt gây nên bởi sự dùng thức ăn cá, tôm,
cua v.v.. trong biển bị ô nhiễm chất độc thủy
ngân do các hảng xưởng chế tạo hóa phẩm phế thải
ra. Trong lúc tuyệt vọng chờ chết nhờ sự hướng
dẫn của người thân bà gia nhập “Lập Chánh Giao
Thành Hội” (Rissho Kosei-Kai), một tổ chức Phật
Giáo lớn tại Tokyo ra đời năm 1938, do ông
Nikkyo Niwano sáng lập và làm Chủ Tịch. Hội lấy
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm căn bản tu học. Bà
Sugimoto, sau nhiều tháng ngày thành tâm tụng
kinh cầu nguyện và nhờ sức nhiệm mầu gia hộ của
đức Phật, cuối cùng bà ta đã lành bệnh.
Vào lúc
hừng đông, tôi nằm mơ thấy đức Phật với tướng
hảo trang nghiêm rực rỡ, Ngài dang hai tay ra ôm
tôi vào lòng. Mãi đến hôm nay, tôi vẫn còn nhớ
rõ giấc chiêm bao này. Lúc ấy, tôi đang mắc
chứng bệnh Minamata gây nên bởi sự nhiễm độc hóa
chất thủy ngân. Sau một thời gian lâu nằm chữa
trị tại bệnh viện, các bác sĩ đành chịu bó tay,
và tôi bị tê liệt hẳn khi trở về nhà. Trải qua
bốn năm, trong tình trạng bại xụi này, tôi cảm
thấy vô cùng đau đớn khi cử động. Da thịt nơi
thân thể tôi trở nên tím bầm và sưng phù lên.
Chân tay tôi không thể co duỗi dễ dàng và tôi
cũng không còn cách nào tự mình lăn qua hay trở
lại gì được. Tôi nằm liệt trên giường bất động
như một khúc gỗ.
Tôi không
còn thích sống trong bệnh tật nữa. Tôi mong được
chết sớm một cách an lành. Tôi thực sự muốn từ
giã cõi đời, vì tôi đã từng chứng kiến sự đau
đớn vào những ngày cuối cùng của nhiều người
không may mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo
Minamata.
Ba tôi cầm
đầu một nhóm ngư phủ từ ba mươi đến bốn mươi
người. Năm 1969, ông ta đã chết vì bệnh Minamata.
Sau ngày ba tôi qua đời, rất ít người đến thăm
gia đình tôi. Tuy nhiên, vào buổi chiều ngay cái
hôm tôi nằm chiêm bao thấy đức Phật, một người
bạn đã đến thăm tôi. Ông ta tên là Tetsuya Seki,
một hội viên của Lập Chánh Giao Thành Hội (Rissho
Kosei-Kai). Sau khi nghe ông Seki thuyết giảng
về việc cầu siêu cho người quá cố, tôi nhận biết
rằng có thể ông ta là sứ giả của đức Phật mà tôi
đã nằm mộng thấy hồi sáng nay. Do sự khuyến
khích của ông, tôi liền xin gia nhập Hội Phật
Giáo Rissho Kosei-Kai vào tháng 5 năm 1972.
Cuộc gặp
gỡ đạo hữu Seki đã mang tôi lại gần với đức Phật,
nhưng vẫn không chấm dứt được sự đau đớn vì
chứng bệnh của tôi. Những ngày tháng tiếp theo
là sự tranh đấu không ngừng. Tôi thực sự thành
tâm tụng kinh cầu nguyện đức Phật từ bi gia hộ.
Vì chân tay tôi không thể nào cử động, nên chồng
tôi đã giúp cầm mở cuốn kinh ra cho tôi thầm
lặng chí thành tụng niệm, trong khi đầu tôi đau
nhức như búa bổ, sắp vở tung và tôi cũng không
thể nói năng gì được.
Từ nhà đạo
hữu Seki đến nơi tôi ở mất hai giờ rưỡi lái xe,
nhưng ông ta đã không ngại đường sá xa xôi, vẫn
thường đến thăm và an ủi tôi mỗi ngày. Cuốn sổ
ghi pháp danh các hương linh quá cố của Chi Hội
chúng tôi ban đầu chỉ có một, sau đó tăng lên
hai tập, vì tôi nhận làm công tác cầu nguyện cho
những Phật tử đã không may qua đời vì bịnh
Minamata cũng như các ngư phủ bị tai nạn chết
ngoài biển cả.
Do sự
khuyến khích của đạo hữu Seki và chồng tôi, mỗi
sáng chiều tôi tiếp tục cầu nguyện, và tôi cảm
thấy bệnh tôi lần lần thuyên giảm, có thể cử
động chút ít thân hình bại liệt của tôi. Cuối
cùng tôi có thể ngồi dậy được trong khoảng thời
gian ngắn. Sau hơn một năm, tôi nghe tin chi bộ
Hội Phật Giáo của tôi dự định sẽ tổ chức một
phái đoàn hành hương lên viếng thăm ngôi bảo
điện trang nghiêm tại trụ sở ngôi chùa trung
ương của Hội Rissho Kosei-Kai ở Đông Kinh
(Tokyo). Tôi tự nghĩ biết rằng tôi không thể đi
đứng bình thường được, nhưng hy vọng dù thế nào,
tôi cũng sẽ cố gắng tham dự cùng đi chung với
phái đoàn; vì tôi ước mong ít nhất một lần trong
đời mình đựợc cầu nguyện ngay tại chánh điện thờ
Phật của ngôi chùa Hội quán trung ương đó.
Để giúp
tôi thành tựu điều mong ước này, toàn thể hội
viên trong Chi bộ Lập Chánh Giao Thành Hội (Rissho
Kosei-Kai) tại thành phố Yatsushiro đã hết lòng
cầu nguyện cho tôi. Đại đức chi bộ trưởng
Akihiro Kuga cũng đã khuyến khích tôi nên tham
gia cùng đi với phái đoàn. Đại đức nói: “Này,
đạo hữu Sugimoto, tôi nghĩ nhân dịp này đạo hữu
nên trình bày trước đại hội ở hội quán trung
ương cho mọi người biết những kinh nghiệm bản
thân đạo hữu về sự mầu nhiệm của niềm tin cầu
nguyện nơi đức Phật”. Cuối cùng, tôi đã thực
hiện chuyến đi hành hương lên Tokyo.
Tôi được
sắp xếp nằm ở chiếc ghế dài trên một chuyến xe
lửa đặc biệt. Ngày sau, trong hơi thở hổn hển,
tôi được chồng và chú tôi giúp đỡ dìu bước lên
những bậc cấp để đi vào chánh điện tại ngôi chùa
hội quán trung ương. Tôi nghe tiếng nói “Kính
chào quý vị” vang lên trong tai và xâm
nhập vào lòng tôi. Tôi ngạc nhiên nhìn lên thấy
trước mặt mình chính đức Phật mà tôi đã nằm
chiêm bao thấy hơn năm trước tại nhà tôi. Tôi
reo lên: “Lạy Phật, hôm nay con tới đây với
Ngài rồi!”. Quá xúc động, nước mắt tôi chảy
ràn rụa, và tôi cứ để cho những dòng lệ tiếp tục
chảy như thế. Lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình
thanh tịnh và trong giây lát, như từ nơi bóng
tối, tôi đã thoát ra ngoài ánh sáng. Những cơn
đau đớn dữ dội hành hạ vì chứng bịnh của tôi từ
nhiều năm qua, giờ đây dường như đã biến mất.
Tôi cảm thấy thân thể trở nên khỏe mạnh và tinh
thấn vô cùng vui vẻ, thoải mái.
Tại hội
trường “Phổ Môn” với đông đảo Phật tử trong phái
đoàn hành hương của tôi đang họp mặt, tôi được
đạo hữu trong Ban Quản Trị của chùa mời lên phát
biểu cảm tưởng. Lúc ấy mầu nhiệm thay, tôi đã có
thể một mình đứng lên được mà không cần ai nâng
đỡ. Trước sự hiện diện của hàng trăm thiện nam
tín nữ, tôi đã phát biểu ngắn gọn như sau:
“Tôi cảm thấy đức Phật đối với tôi giờ đây thực
hết sức nhiệm mầu! Nhiều người đang đau khổ cùng
cực vì mắc phải chứng bịnh Minamata. Tôi mong
rằng quý vị sẽ giúp đỡ để một ngày nào những
bệnh nhân bất hạnh đó cũng sẽ có được cùng niềm
tin Phật Pháp như tôi hôm nay”. Tiếp theo là
những tràng pháo tay nổ dòn từ các thính giả
vang lên như phá vỡ sự yên lặng của cả hội
trường, trong lúc lòng tôi cảm thấy vô cùng sung
sướng vì lần đầu tiên sau những tháng năm dài
đau ốm, tôi đã đứng dậy được một mình, không
phải nhờ người khác giúp đỡ. Từ Tokyo trở về nhà,
tôi bước ra khỏi xe lửa mà không cần ai phụ giúp.
Những người đến tiếp đón tôi thấy vậy đều kinh
ngạc.
Từ hôm ấy,
tôi đã dành hết thì giờ chú tâm vào việc đến
thăm những người mắc bệnh Minamata và giảng cho
họ thấy rõ sự cao siêu nhiệm mầu của giáo lý đức
Phật, cùng mọi phước đức trong việc cầu nguyện
cho người quá cố, ông bà tổ tiên. Công tác Phật
sự này đã trở thành lẽ sống và nguồn vui của tôi.
Bịnh
Minamata đã mang lại sự đau đớn khủng khiếp cho
nhiều người và tệ hại hơn nữa là không có thuốc
gì chữa lành hẳn được chứng bịnh này. Cho nên
tôi không ngạc nhiên khi thấy nhiều bệnh nhân mà
tôi đến thăm, họ tỏ ra vô cùng xúc động. Họ
thường hỏi tôi: “Ai bảo bà đi làm công tác này?”.
Khi họ nhận biết rằng tôi đã từng đau khổ vì mắc
phải cùng chứng bịnh và hiện tại tôi đã ráng sức
di chuyển cái thân thể yếu đuối của tôi để đến
thăm họ thì tất cả đều thông cảm. Nhiều bệnh
nhân dần dần đã nghe tôi quay về theo giáo lý
của đức Phật.
Khi khuyến
khích, hướng dẫn các bệnh nhân gia nhập Hội Phật
giáo Rissho Kosei-Kai, tôi nhận thấy rằng tôi đã
có thể làm một công việc phước đức giúp đỡ cho
những kẻ khác. Điều đó đã nâng cao tinh thần tôi
và tôi cảm thấy sống qua những ngày thực sự hạnh
phúc.
Mười bốn
năm đã trôi qua kể từ hôm đầu tiên tôi quỳ xuống
cầu nguyện đức Phật qua tiếng khóc nức nở tại
chánh điện của hội quán trung ương Lập Chánh
Giao Thành Hội ở Tokyo. Từ đó, tôi lần lần được
chữa lành khỏi bịnh Minamata. Tôi tìm thấy qua
sự luyện tập các vũ điệu dân tộc như phương cách
hữu hiệu nhất trong việc phục hồi sức khỏe của
thân thể. Có người bảo rằng tập vũ đối với các
bịnh nhân Minamata là điều không tốt, nhưng theo
kinh nghiệm của tôi thì nó lại rất là hữu ích.
Tôi tập
múa như một đứa trẻ, chồng tôi có lần bảo: “Anh
sẽ đi mua cho em một cái quạt dùng để múa thật
đẹp và mướn một vũ sư để dạy cho em”. Tôi đã cảm
động khóc, khi nghe chồng tôi nói như vậy. Từ đó,
tôi cố gắng hết lòng tập múa, nhưng điều ấy
không phải dễ. Đầu tiên tôi đi tới một bước lại
té xuống, rồi tiếp đi bước thứ hai lại ngã xuống
nữa. Nhưng tôi đã tự khuyến khích mình bằng cách
quán tưởng rằng đức Phật như đang nhìn tôi múa
hát và tôi tiếp tục gắng sức để tập múa cho được.
Gần đây,
tôi đã có thể chèo thuyền với chồng tôi ra biển
Shiranui và theo đuổi những đàn cá bạc óng ánh
lội ngoài khơi, cánh tay tôi không còn cảm thấy
đau nhức và lòng tôi tràn đầy hạnh phúc. Được
nuôi dưỡng lớn lên giữa tiếng gào thét của sóng
biển như điệu hò ru con dưới bầu trời trong xanh
của vùng đảo Kyushu nên tôi đã vô cùng yêu
thương biển cả.
Trích từ
tạp chí “Dharma World”
Dưới đây là lời bình luận của ông
Kinzo Takemura, Giám đốc Hội Phật Giáo Rissho
Kosei-Kai tại Tokyo (Nhật Bản) về bài viết trên
của đạo hữu Eiko Sugimoto
Các độc giả đều hiểu rõ sự việc liên quan đến
chứng bịnh Minamata qua loạt bài đăng ở tạp chí
này về “Thảm trạng của
bịnh Minamata” nhưng
nay tôi sẽ tóm lược lại hậu quả khốc hại của nó
để chúng ta có thể hiểu biết trực tiếp và sâu xa
hơn những kinh nghiệm bản thân qua bài viết trên
của bà Sugimoto.
Minamata
là chứng bệnh gây nên do bệnh nhân ăn nhằm chất
độc thủy ngân, thường thấy xảy ra tại khu vực
trong vịnh Minamata thuộc quận Kumamoto (Nhật
Bản). Chất hữu cơ thủy ngân (organic mercury)
này được phế thải ra ngoài vịnh Minamata qua
những dòng nước bẩn từ các hãng xưởng chế tạo
hóa phẩm gần đó. Những tôm cua và cá trong vịnh
Minamata đã nuốt chất thủy ngân, và chất độc
thủy ngân trong thức ăn hải sản mà dân chúng
dùng đến đã phá hoại hệ thống thần kinh, khiến
bệnh nhân có thể bị mù, điếc, và khó khăn trong
sự cử động, nói năng.
Năm
1983 có 2653 trường hợp về chứng bệnh Minamata
xảy ra được chính thức ghi nhận và khoảng 730
người đã chết vì bịnh này. Đầu tiên, các hãng
xưởng trong vùng đó từ chối nhận trách nhiệm gây
ra sự ô nhiễm. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy
chứng bệnh đã phát triển, xảy ra giống nhau ở
quận Niiagata nên chính phủ Nhật đã xác quyết sự
ô nhiễm chất thủy ngân trong biển là nguyên nhân
gây nên bịnh Minamata.
Trường
hợp tương tự của chứng bịnh này gây nên bởi vùng
biển ô nhiểm chất thủy ngân cũng đã thấy xuất
hiện ở Ontario, Canada vào năm 1975. Bịnh
Minamata còn thấy xảy ra tại Ấn Độ, nơi dân
chúng sống gần vùng nước sông bị nhiễm chất thủy
ngân gây nên bởi các hãng xưởng chế tạo hóa phẩm;
và tại khu dân cư sinh sống dọc bờ biển trong
vịnh Djakarta ở Indonesia.
Do đó,
chúng ta nên nhận thức rằng sự việc mà bà
Sugimoto kinh nghiệm trải qua, đã nêu lên một
vấn đề quan trọng không chỉ cho riêng cá nhân bà
ta mà toàn xã hội của chúng ta. Nền văn minh
khoa học hiện đại đã giúp chúng ta có một đời
sống đầy đủ tiện nghi vật chất hơn, nhưng chúng
ta đừng quên rằng mặt khác nó cũng gây hậu quả
tai hại khủng khiếp: sự làm ô nhiễm và phá hoại
môi sinh qua câu chuyện bà Sugimoto kể trên.
Chúng ta cần ý thức sâu xa về những nguy hiểm
gây nên do bởi sự tiến bộ khoa học đã vượt quá
sự tiến bộ tinh thần. Vì nhân loại là một phần
của thiên nhiên, nên khi hủy diệt thiên nhiên
tức chúng ta sẽ hủy diệt nhân loại.
Sự cải
đổi chính bản thân và quan niệm sống của chúng
ta là điều hết sức khó khăn. Hình như chúng
ta không muốn theo lời Phật dạy để tu tỉnh khi
đời sống của chúng ta diễn tiến êm xuôi, gặp
nhiều may mắn. Chúng ta chỉ thực sự tu tập khi
trong cuộc sống chúng ta gặp phải những vấn đề
khổ đau không thể giải quyết. Do đó, chúng
ta dễ dàng hiểu biết trường hợp của đạo hữu
Sugimoto đã phát tâm tinh tấn tu hành khi bà ta
mắc phải chứng bệnh ngặt nghèo khó chữa trị
Minamata.
Sau một
thời gian cầu nguyện, chí thành tụng kinh niệm
Phật, bệnh của bà Sugimoto đã lần lần thuyên
giảm. Bà đã phục hồi, thoát khỏi tình trạng bị
tệ liệt hoàn toàn, và có thể tập múa các vũ điệu
dân tộc mà bà ta ham thích. Cuộc sống của bà đã
trở lại gần như bình thường. Làm thế nào bà đã
có được sự bình phục kỳ diệu này? Ngay sự hiểu
biết thông thái của nhà tâm thần học Thụy sĩ,
ông C.G.Jung (1875-1961) cũng không tài nào giải
thích nổi.
Cho nên,
một điều giản dị chúng ta có thể nói là chúng ta
cần phải biết tri ân thế giới thiên nhiên đang
bao bọc chúng ta và nên tìm cách sống hòa hợp
với thiên nhiên.
Phỏng viết
theo bài “Respect For Nature Is Vital To Our
Well-Being” (Tôn trọng Thiên Nhiên là
điều thiết yếu cho Hạnh Phúc của chúng ta)
của Cư Sĩ Kinzo Takemura, đăng ở tạp chí
“Dharma World” phát hành tại Tokyo (Nhật Bản) |