HÀNH
TRANG
Diệu Trân
Phàm, ai lên đường cũng mang theo
hành trang, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ là do quan niệm về nhu cầu và mục
đích chuyến đi.
Khi gã đến bái biệt Thầy, lòng chợt
rưng rưng khi chạm vào ánh mắt đầy xót thương. Chẳng lẽ chưa phải là lúc gã
lên đường hay sao? Chẳng lẽ Thầy chưa thấy hết những quằn quại thôi thúc
trong gã bấy lâu ư?
Tuy thế, giây phút tạm biệt không sầu
bi như gã tưởng. Vẫn với giọng nói nhỏ nhẹ, điềm đạm cố hữu, Thầy ôn tồn bảo:
- Chỉ mang theo một chữ, chữ “NHẪN”.
Bất cứ nơi đâu, thế nào, cũng chỉ hành xử bằng chữ nhẫn mà thôi. Khi nào cảm
thấy cần Thầy thì hãy nhớ rằng Thầy luôn ở bên con.
Gã cung kính lạy Thầy ba lạy. Gã lên
đường với hành trang là chữ “NHẪN” và ánh mắt xót thương của Thầy.
Hai đầu quang gánh không đồng đều nên
bước chân gã ngả nghiêng như người say rượu. Thầy trao chữ “Nhẫn” nên gã đặt
chữ nhẫn ở quang gánh trước, và ánh mắt xót thương của Thầy ở quang gánh sau.
Với gã, chữ nhẫn còn nhẹ tênh mà ánh mắt Thầy thì nặng qúa. Chẳng phải gã đã
từng nói:
- Thầy ơi, con biết chắc là con đã
từng được đảnh lễ Thầy từ kiếp trước, hay từ vô lượng kiếp trước không chừng.
Thầy đã không cười vì câu nói mùi
riệu, sắp xuống sáu câu này, mà chỉ hiền từ bảo: -Thế ư?
Thực tâm, gã luôn nghĩ về Thầy như vị
Thầy-Bổn-Sư, Thầy-Y-Chỉ, vì những gì Thầy nói mà gã đã được nghe, những gì
Thầy viết mà gã đã được đọc, những gì Thầy làm mà gã đã được thấy…. Hết thảy
đều là kim chỉ nam cho gã. Ấy thế mà, vì những chướng duyên kiếp này, gã
chưa từng được Thầy nhận làm đệ tử, dù gã vẫn cảm nhận được là “Thầy luôn ở
bên con”.
“Thầy luôn ở bên con”. Điều này không
đủ, chưa đủ, đối với gã. Nhất là trong lúc này.
Lặng lẽ ngồi thiền trong bóng đêm, gã
đã quán chiếu tên bay, đạn nổ tứ phía và thấy rõ rằng chỉ cần nhận diện
những đối tượng là hiển lộ ngay thực chất. Chỉ nhận diện thôi, chưa cần, và
sẽ không bao giờ cần suy luận gì, cũng thấy ngay. Những đối tượng đang hung
hãn ném bùn và những đối tượng đang an nhiên trước đất bùn. Nhận diện thế
thôi cũng đủ mang đến cho nhân gian một nụ cười tội nghiệp.
Cũng trong bóng đêm, gã từng nhìn
thấy dáng những cây tùng, cây bách thẳng tắp, vút cao, sừng sững nhưng lặng
thinh trên triền dốc núi. Hãy mưa đi. Hãy gió đi. Hãy giông bão đi. Rồi mưa
nào không dứt. Gió nào không im. Giông bão nào không qua. Còn lại, vẫn là
vạn hữu bao la muôn thuở, và con chim én sẽ về, đậu trên ngọn tùng chót vót
sương mai để báo hiệu mùa Xuân đang tới!
Gã từng mỉm cười trong đêm khi nhớ
tới giai thoại Thiện-Tài đến gặp Tự-Tại-Chủ. Khi đó, Tự-Tại-Chủ còn là một
chú bé, đang ngồi vọc cát chơi trên bãi biển, nhưng vì đã được giới thiệu
trước nên Thiện-Tài biết đây là một bậc Thánh-giả, rất tinh thông toán pháp
vì đã được học toán với Ngài Văn Thù Sư Lợi. Tự-Tại-Chủ nói với Thiện-Tài
rằng: -Bằng phép toán của Bồ Tát, tôi có thể dễ dàng tính đếm được số cát
trên các bãi biển, có thể đo lường dài ngắn khắp mười phương thế giới, có
thể lượng định lớn nhỏ mọi vật thế gian.
Một bậc Thánh-giả nói lên điều đó với
người đi cầu đạo để làm gì? Chắc chắn không phải để khoe sở học, vì phàm
những gì không thực có, mới khoe. Vậy, hẳn là Tự-Tại-Chủ muốn đem những hình
thái cụ thể để chỉ dạy Thiện Tài những ý niệm về tâm. “Với những tâm nhỏ
hẹp thì căn nhà chúng đang ngụ cũng là thế giới mênh mông; trong khi, với
những đại-bi-tâm thì cả vũ trụ chẳng lớn hơn hạt cải ”.
Lớn nhỏ, rộng hẹp, nông sâu, chỉ là những khái niệm tương đối trước
Bồ-Đề-Tâm, vì trái tim vô giới hạn đó sẽ an nhiên thâu nhiếp tất cả ân oán,
xấu đẹp. Ân để đền trả, oán để giải trừ, xấu để nhiếp độ, đẹp để khuyến tấn…..
Rủi thay, gã chưa được là tiểu đồng
theo chân Thiện-Tài đi cầu đạo nên chưa phát nổi Bồ-Đề-Tâm. Gã tự an ủi rằng,
Thường-Đề Bồ Tát là vị đã tu tập tinh thông, nhuần nhuyễn Ba-la-mật, nhưng
khi chứng kiến những oan khổ thế gian, đôi mắt Ngài đã thường đẫm lệ. Vậy
thì, gã có khóc trước tâm địa độc ác của thế nhân cũng chưa phải là điều
đáng trách. Có chăng là tự trách đã để bi lụy trở thành oán hận. Khi nhận ra
điều này gã mới thực sự hốt hoảng.
Dù Thầy không có mặt nơi đây, gã vẫn
quỳ xuống, sám hối cùng Thầy vì những lời Thầy dạy, gã chẳng thực hành được
là bao. Gã không từ-bi và nhẫn nhục đủ, để nối bài học Ba-La-Mật thành chuỗi,
như Thầy thường dẫn chứng trong Kim-Cang-Bát-Nhã-Ba-La-Mật Kinh-Luận, là tất
cả các Ba-La-Mật đều được hiển thị bằng yếu tính của Bố-thí-ba-la-mật:
“Với sự bố thí về tài sản mà Bố-thí-ba-la-mật được thành tựu. Với sự bố
thí về vô-úy mà Giới-ba-la-mật và Nhẫn-ba-la-mật được thành tựu. Với sự bố
thí về pháp mà Tinh-tấn-ba-la-mật, Định-ba-la-mật và Tuệ-ba-la-mật được
thành tựu” (*)
Nếu nghiêm túc thực hành được bài học
này, gã đã không để bi lụy trở thành oán hận.
Bây giờ, oán hận đã thành hình, gã
không thể chỉ ngồi khóc trước khổ nhục, không thể chỉ ngồi chiêm ngưỡng
những thân tùng, thân bách sừng sững thinh lặng trước bão giông. Gã phải lên
đường, men theo triền dốc mà đi, dẫu có thịt nát xương tan cũng chỉ là đem
hạt cát này hòa vào đại dương để mong có ngày cùng được trôi ra biển lớn.
Phải lên tận đỉnh núi kia, ngửa mặt, giang tay, trực diện giông bão đó, thay
vì, mãi tự lừa dối mình trong căn nhà không ngừng bị lửa phiền não vây đốt.
Tự lừa dối như thế thì
“Phật-thừa không hơn một tiếng nói suông của kẻ mê sảng trong giấc ngủ ngày.
Hạt giống Bồ-Đề không được gieo vào một cánh đồng trừu tượng nào xa xôi,
cũng không chờ đợi để được gieo vào một vùng đất hứa thần thoại nào khác, mà
nó được gieo xuống ngay trên sa mạc sinh tử này, khô cằn với những đau khổ
triền miên của chúng sanh này”(*)
Bằng những lời dạy đó, gã đã lên
đường, bước vào giữa cuồng phong của tâm địa nhân gian với gánh hành trang,
một đầu là chữ “Nhẫn”, đầu kia là ánh mắt xót thương của Thầy. Ánh mắt đó,
theo mỗi bước chân, lại chuyển dần xót-thương thành từ-ái.
Cứ thế, trên đường lên núi, hai đầu
gánh cân bằng dần, khiến bước chân gã không còn ngả nghiêng, xiêu vẹo…
Tới đỉnh núi, trời đã về chiều. Đặt
gánh hành trang xuống, gã kinh ngạc không thấy đâu là chữ “Nhẫn”, đâu là ánh
mắt Thầy.
Cả hai đầu gánh chỉ thấy la đà những
áng mây bay …
Diệu Trân
Như-Thị-Am, trung tuần tháng
tám 2007
|