ĐỂ GIỚI TRẺ TÌM VỀ VỚI PHẬT GIÁO
TN. HuỆ ĐỨc
1. Từ tình hình thực tế
Theo thống kê, dân số Việt Nam
hiện nay hơn 83 triệu dân. Mặc dù chưa có sự khảo sát chính xác nhưng theo
đánh giá chung, con số Phật tử Việt Nam hiện nay được xem là quá ít so với
chiều dài lịch sử phát triển hàng ngàn năm của Phật giáo Việt Nam. Trong số
những Phật tử Việt Nam, thật ra có bao nhiêu Phật tử là thanh thiếu niên? Từ
thực tế khảo sát tình hình tu học, thính pháp, sinh hoạt tại các tự viện ở
Việt Nam hiện nay, chúng ta cũng có thể thấy đại đa số Phật tử nằm ở độ tuổi
trung lão niên, còn thanh thiếu niên Phật tử hiện nay tuy số lượng có tăng
trong những năm gần đây; thế nhưng, so với tín đồ trẻ của các tôn giáo bạn
thì con số đó chưa tương xứng với quá trình phát triển của một tôn giáo đã
có mặt hơn 2.000 năm trên đất nước Việt Nam. Thực trạng đó là một nỗi ưu tư
sâu đậm cho những ai quan tâm đến lứa tuổi thanh thiếu niên, và đây cũng là
một niềm trăn trở của những người làm công tác hoằng pháp. Phải chăng vì
Phật giáo quá cứng nhắc hay quá “già” đến nỗi giới trẻ không thể đến gần?
Thực chất, đạo Phật là đạo trí
tuệ, giáo lý Phật giáo rất uyển chuyển linh động, có khả năng làm cho con
người có sự năng động sáng tạo. Và tính năng động sáng tạo cũng là bản chất
của giới trẻ. Vì vậy, cần phải khẳng định rằng Phật giáo rất “trẻ”, rất phù
hợp và rất cần cho giới trẻ. Nhưng làm thế nào để giới trẻ tìm về với Phật
giáo?
2. Đi tìm những nguyên nhân
Trước hết, chúng ta thấy rằng tuy
Phật giáo xem trọng đức tin, nhưng đức tin chỉ là một trong vô vàn cửa ngõ
để vào đạo, và vấn đề đặt ra là tin như thế nào? Trong đạo Phật, nếu chỉ có
đức tin thôi không đủ để làm cho con người giải thoát khỏi khổ đau mà việc
thực hành giáo pháp để đưa tới giác ngộ giải thoát mới là điều thiết yếu của
người theo Phật giáo. Giáo pháp của Đức Phật khuyên chúng ta “hãy đến
để thấy”. Đức Phật khuyên chúng ta hãy thực hành giáo pháp của Ngài
để thực nghiệm trạng thái an lạc giải thoát chứ không phải đứng nhìn giáo
pháp từ xa với một niềm tin vô bổ. Đặc tính này rất phù hợp với tính hiếu
kỳ, tính tự lập và tính thực tế của giới trẻ. Giới trẻ là những con người
đang ở độ tuổi sung mãn, luôn muốn chứng minh mình có đủ khả năng để nghiên
cứu tìm tòi, có đủ khả năng để tự tạo dựng cuộc sống của bản thân trong
tương lai, và cũng có đủ khả năng để thay đổi vận mệnh đất nước. Tuổi trẻ
không muốn đi theo một lối mòn, không muốn bị đúc khuôn mà luôn khám phá bản
thân và thế giới xung quanh, muốn kiến tạo một cuộc sống mới. Vì vậy, giới
trẻ chỉ tin vào những gì mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống hiện tại
mà không tin những gì mơ hồ huyền ảo. Đây cũng chính là tính chất thiết thực
của Phật giáo.
Chính vì tính chất này mà đôi khi
giới trẻ mải mê chạy theo cuộc sống vật chất mà quên đi yếu tố truyền thống
đạo đức tâm linh. Đạo đức là nền tảng để xây dựng một con người. Một khi nền
tảng bị lung lay thì làm sao có thể kiến tạo được con người rường cột cho xã
hội? Và một khi bị khủng hoảng, giới trẻ sẽ không còn chỗ nương tựa vững
chắc, đó chính là lý do hình thành tệ nạn trong xã hội, tiêu cực trong cuộc
sống. Điều kiện sống của xã hội trong thời đại hưởng thụ vật chất như hiện
nay thường kích thích các tâm lý xấu hơn là tâm lý tốt cho giới trẻ. Do vậy
yêu cầu của Phật giáo là cần phải giáo dục giới trẻ có một trình độ hiểu
biết, tư duy phân biệt rõ tốt xấu, hư thực và có khả năng kiểm soát các hành
vi của chính mình bằng những bài pháp sinh động cụ thể và phù hợp với từng
lứa tuổi.

3. Những kiến nghị
Để giới trẻ đến chùa, tìm tới
Phật giáo thì Phật giáo phải giữ một vai trò thiết yếu không thể thiếu trong
đời sống của giới trẻ. Muốn vậy, Phật giáo phải đáp ứng được các nhu cầu của
giới trẻ. Mà muốn đáp ứng được các yêu cầu của giới trẻ thì phải hiểu rõ tâm
tư tình cảm và nhu cầu của giới trẻ. Nhu cầu giới trẻ thay đổi tuỳ theo từng
độ tuổi. Các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) đã nghiên cứu và kết luận rằng:
“Ở mỗi giai đoạn lứa tuổi có một hoặc hai hoạt động chủ đạo giữ vai trò
quyết định sự biến đổi tâm lý ở giai đoạn lứa tuổi đó”. Chẳng hạn:
vui chơi là hoạt động của trẻ em ở tuổi mầm non; học tập là hoạt động chủ
đạo của tuổi học sinh; lao động, tìm tòi khám phá là hoạt động của thanh
niên v.v... Khi nắm rõ tâm sinh lý và nhu cầu của giới trẻ rồi, bước tiếp
theo chúng ta cần phải đưa ra nhiều loại hình sinh hoạt Phật giáo phong phú
và đa dạng, phù hợp với từng lứa tuổi để từ từ hướng giới trẻ đến với Phật
giáo.
3.1 Về mặt giáo lý:
đối với trẻ dưới 6 tuổi,
không nên dạy giáo lý sớm cho chúng mà chỉ nên dạy các bé về lịch sử Đức
Phật Thích Ca, các vị Thánh đệ tử Phật hay những câu chuyện tiền thân Đức
Phật bằng tranh minh họa để các bé có ấn tượng sâu sắc về cuộc đời và hạnh
nguyện của các Ngài. Đối với thanh thiếu niên, cần dạy cho chúng các giáo lý
căn bản của Phật giáo như Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi, Tứ đế, Duyên khởi,
Bát chánh đạo v.v... để giới trẻ có cái nhìn về con người và thế giới theo
quan điểm Phật giáo và thấy được những giá trị đạo đức thiết yếu trong mối
quan hệ cuộc sống cá nhân với cộng đồng. Ngoài ra, kinh Thiện Sanh
(bài kinh dạy về cách ứng xử trong quan hệ gia đình) cũng là bài pháp mà
thanh niên cần được truyền trao để làm tư lương trong cuộc sống gia đình và
xã hội.
3.2 Về vấn đề nghi thức, tụng
kinh bái sám: để
giới trẻ tham dự vào các khóa lễ Phật giáo, chúng ta không thể giữ nguyên
nghi thức truyền thống chỉ ngồi tụng kinh gõ mõ đơn điệu. Các nghi thức,
khóa lễ cần phải được đa dạng hóa, cần phải xen kẽ những bài nhạc lễ kết hợp
với việc ngồi tịnh tâm hay đi kinh hành để tạo sự linh hoạt, tạo không khí
trẻ trung nhưng không mất phần trang nghiêm trong nghi lễ.
3.3 Đa dạng hóa các chương trình
tu học, sinh hoạt:
Ngoài việc xây dựng các đạo tràng
tụng kinh, niệm Phật hay các khóa tu như: Phật thất, Phật nhật, đạo tràng tu
Bát quan trai, đạo tràng Đại Bi, đạo tràng Dược Sư, các khoá thiền v.v… để
hướng dẫn Phật tử trẻ tu tập, thanh lọc tâm thức thì các mô hình sinh hoạt
văn hóa Phật giáo cũng rất cần thiết như: các đội văn nghệ, các lớp nữ công
gia chánh (cắm hoa, nấu ăn chay, thêu may), các lớp hội hoạ, thư pháp, chơi
nhạc cụ v.v.. để giáo dục giới trẻ về thẩm mỹ văn hoá Phật giáo. Đây là
những loại hình sinh hoạt rất quan trọng trong việc thu hút và đưa giới trẻ
tới chùa.
Do giới trẻ sống trong môi trường
xã hội hiện đại, bị bao phủ bởi sự chi phối của vi tính, điện tử hiện nay
nên cũng chịu ảnh hưởng nhiều bởi môi trường sống này trong cách vui chơi,
giải trí. Hiện nay, các bé trai có xu hướng thích chơi game online, thích
xem phim hoạt hình bạo lực đấm đá, còn các bé gái thì thích lang thang trên
mạng để tán gẫu hoặc tìm tòi khám phá những điều chưa biết. Dựa vào nhu cầu
và thị hiếu này, Phật giáo chúng ta nên đầu tư sản xuất những bộ phim hoạt
hình Phật giáo, truyện tranh hay những trò chơi game Phật giáo hoặc các
video clip nhạc Phật giáo để giới trẻ vừa được giải trí vừa hấp thụ những
giá trị tư tưởng văn hóa Phật giáo.
Nhu cầu chung của thanh thiếu
niên là học nhưng phải được chơi. Do đó, để giới trẻ đến chùa “tu mà
vẫn được chơi, chơi mà vẫn có tu” thì cần phải có những buổi tu học
dã ngoại, cắm trại kết hợp với thi kiến thức Phật pháp v.v… Mô hình tu mở
rộng này rất dễ thu hút giới trẻ và thường là để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
trong lòng giới trẻ.
Ngoài ra, việc thành lập những
quỹ từ thiện giáo dục như: quỹ hỗ trợ học sinh nghèo, quỹ khuyến học, quỹ
bảo trợ, v.v... để giúp đỡ các em sinh viên, học sinh có hoàn cảnh gia đình
khó khăn có nguy cơ bị thôi học được tiếp tục đến trường, hay khuyến khích
các em học sinh nghèo hiếu học phát huy hơn nữa khả năng học tập nghiên cứu
của các em hoặc phát thưởng cho các em học sinh khá giỏi để động viên các em
hiếu học hơn nữa v.v... cũng là một cách thiết lập sợi dây gắn kết thanh
thiếu niên với Phật giáo.
4. Các tiêu chuẩn để thực hiện
4.1 Vai trò của gia đình – nhà
trường – xã hội:
Để giới trẻ có khái niệm về Phật
pháp và có ý thức về việc đến chùa tu học, các bậc phụ huynh đóng một vai
trò rất quan trọng. Bởi gia đình là cái nôi văn hóa của con người từ khi
sinh ra cho đến khi lớn lên. Ở giai đoạn sơ sinh, tức từ khi mới sinh ra cho
tới khi 6 tuổi, trẻ chịu ảnh hưởng rất lớn nếp sống và cách cư xử của những
người thân trong gia đình, cho dù trẻ có đi mẫu giáo hay ở nhà, dù nhà giàu
hay nhà nghèo, nông thôn hay thành thị v.v… Ở giai đoạn này, người mẹ đóng
vai trò rất quan trọng đối với trẻ. Người mẹ không chỉ cho con bú mớm, ẵm
bồng mà còn hun đúc, huân tập những đức tính thiện lành căn bản cho sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này.
Tới tuổi học sinh, trẻ chịu ảnh
hưởng bởi nền giáo dục học đường, nhưng nhà trường chỉ là môi trường để giới
trẻ lĩnh hội tri thức, còn tình cảm của người thân, nếp sống truyền thống,
chuẩn mực đạo đức của gia đình vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục
đạo đức cho giới trẻ. Ở giai đoạn này, bên cạnh tình thương yêu ân cần của
người mẹ thì sự gần gũi hướng dẫn dạy dỗ của người cha sẽ làm cho nhân cách
của trẻ càng thêm tốt đẹp.
Sau khi rời ghế nhà trường, trẻ
bước vào giai đoạn trưởng thành ở tuổi thanh niên. Ở giai đoạn này, thanh
niên đã tích tập được nhiều kiến thức từ học đường, đã có cách nhìn nhận
riêng mang tính cá nhân về cuộc đời và xã hội, nhưng đồng thời cũng bắt đầu
tiếp nhận một nền giáo dục mới, đó là giáo dục xã hội. Nền giáo dục này cung
cấp các kiến thức chuyên môn để sống và phục vụ xã hội. Chính trong quá
trình sống, học tập, lao động, giao lưu, giải trí, thanh niên đã hình thành
và phát triển nhân cách của mình theo quy luật lĩnh hội các di sản văn hóa,
vật chất và tinh thần do các thế hệ trước để lại và qua sự giao tiếp trong
xã hội.
Vì vậy, truyền thống đạo đức gia
đình, ý thức hệ của xã hội ảnh hưởng rất lớn trong việc trưởng thành về cuộc
sống vật chất lẫn tinh thần của giới trẻ. Nếu được sống trong cộng đồng Phật
giáo, nếu cha mẹ là những người Phật tử thuần thành, sống theo nếp sống gia
đình Phật tử thì giới trẻ cũng sẽ hấp thụ và sống theo truyền thống này. Nếu
gia đình không hình thành nếp sống truyền thống đạo đức thờ cha kính mẹ,
kính trên nhường dưới, trên thuận dưới hòa, không hướng dẫn, khuyến khích
con em đến chùa, làm quen với môi trường văn hoá Phật giáo thì chắc chắn
giới trẻ sẽ không có khái niệm về đức dục, không có khái niệm gì về chùa
chiền hay tụng kinh lễ Phật, không biết gì về tư tưởng văn hóa Phật giáo. Và
như vậy là một thiếu sót lớn trong quá trình nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

4.2 Vai trò của người xuất gia:
Một khi giới trẻ có ý niệm hướng
về Phật pháp rồi, muốn tham gia các hoạt động của Phật giáo, và muốn sống
trong môi trường Phật giáo, thì Tăng Ni là những người đóng vai trò rất quan
trọng trong việc hướng dẫn giới trẻ tu học. Mặc dù giới trẻ có tính hiếu
động, cởi mở, dễ tiếp cận, nhưng để hướng dẫn và cảm phục được giới trẻ hiện
nay, đòi hỏi Tăng Ni phải là người có tâm huyết, đồng thời phải trang bị đầy
đủ kiến thức Phật học lẫn thế học, nhất là kiến thức về tâm lý của lứa tuổi
thanh thiếu niên, đồng thời biết sử dụng thành thạo một vài ngoại ngữ và các
phương tiện truyền thông giải trí hiện đại như vi tính, kết nối mạng .v.v…
Giới trẻ sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ảnh hưởng và sẽ tiếp nhận thân giáo của
những vị thầy trẻ trung năng động, sẵn sàng lăn xả vào đời những lúc dầu sôi
lửa bỏng nhưng không mất vẻ uy nghiêm đức độ, luôn giúp giới trẻ khám phá
những điều kỳ diệu chỉ có thể tìm thấy trong cuộc sống đạo đức tâm linh,
những sư cô từ độ an hòa luôn vỗ về, sẻ chia những điều mà giới trẻ không
thể thổ lộ cùng người thân trong gia đình. Hình ảnh đẹp này sẽ là chiếc cầu
đưa giới trẻ đến chùa và sẽ là chỗ dựa tinh thần đáng tin cậy cho giới trẻ.
Đặc biệt, để cảm hóa những trẻ em
lang thang, cơ nhỡ cứng đầu, ngỗ nghịch hay những trẻ em thuộc thành phần tệ
nạn xã hội, nghiện ngập, buông thả, phóng đãng v.v… thì Tăng Ni phải là
những người có tấm lòng vị tha rộng mở, biết thông cảm và tha thứ cho những
sai lầm của trẻ. Khi trẻ cảm nhận được tình yêu không phân biệt và bắt đầu
có niềm tin thì bước kế tiếp chúng ta phải phân tích cho trẻ thấy những sai
lầm mà chúng mắc phải và những tác hại do chúng gây ra, dạy cho chúng khả
năng nhận thức, phân biệt rõ phải trái, thiện ác, tốt xấu… Sau khi trẻ đã có
được những nhận thức đó rồi, điều quan trọng là chúng ta phải dạy cho chúng
biết hướng thiện, sống đạo đức, biết khép mình vào khuôn phép, kỷ luật tự
giác, sống có mục đích, có lý tưởng hướng thượng để bản thân sống an lạc
hạnh phúc, gia đình xã hội được lợi ích, an hòa.
5. Kết luận
Trên đây là một vài suy nghĩ mang
tính thao thức với mong mỏi duy nhất là đưa giới trẻ đến chùa. Hy vọng qua
buổi tọa đàm này, ngành hoằng pháp Phật sẽ giáo đúc kết được nhiều ý tưởng
hay, để ngày càng có nhiều thanh thiếu niên tìm về với Phật giáo và xem Phật
giáo không chỉ là chỗ dựa tinh thần vững chắc mà còn là một môi trường sinh
hoạt văn hóa, vui chơi giải trí bổ ích, lành mạnh. Hy vọng ngày càng có
nhiều thanh thiếu niên thực hành theo nếp sống, tư tưởng Phật giáo ngỏ hầu
đem lại lợi ích cho bản thân, cho tha nhân và góp phần xây dựng một thế giới
an lành, hạnh phúc…

|