Tuổi Trẻ và Vấn Đề Trí Tuệ
HT. Thích Thanh Từ
Con
người sở dĩ được gọi là con người là do có trí khôn ngoan và biết luân
thường đạo đức. Giá trị của con người không phải ở thể xác to béo mà ở tinh
thần sáng suốt chân chính. Nếu một người nào không có hiểu biết gì, hoặc có
một mớ hiểu biết hỗn tạp đen tối thì còn gì đau khổ bằng.
Vì
thế, mỗi con người chúng ta cần phải trau dồi trí tuệ để trở nên một con
người xứng đáng với danh nghĩa của nó. Nhất là tuổi trẻ, tuổi đầy triển vọng
phát huy trí tuệ, như tấm gương sẵn sàng phản chiếu ánh sáng, nhưng phải chờ
có ánh đèn, ngọn đuốc, ánh sáng mặt trời...
Tuy
con người cần phải trau dồi trí tuệ, nhưng phải biết trí tuệ là gì? - Trí
tuệ là kiến thức rộng rãi, cao sâu, sáng suốt. Nhờ trí tuệ, con người biết
hợp đoàn bảo vệ nhau, biết tổ chức guồng máy xã hội, biết chế tạo những khí
cụ nông nghiệp, kỹ nghệ..., biết phát triển khả năng mình, biết tư tưởng
những triết lý cao siêu, biết ăn ở theo luân lý đạo đức. Tóm lại, trí tuệ là
một kiến thức sáng suốt, hướng dẫn con người sống hợp lý và vươn lên.
Tuổi
trẻ trí óc còn minh mẫn nhưng rất trống, rất khát khao thu nhận những kiến
thức của phụ huynh, của sư hữu, của tiền nhân truyền lại. Như dạ dày trống
rỗng đang đón chờ những thức ăn dồn vào để tiêu hóa. Nhưng phải là thức ăn
có chất bổ dễ tiêu mới có sinh tố bồi dưỡng cơ thể, nếu thức ăn chứa nhiều
chất độc và khó tiêu thì sẽ hại dạ dày và hại luôn cả cơ thể. Trí óc bạn trẻ
cũng thế, thu nhận những kiến thức cao đẹp chân chính sẽ tự cải đổi đời sống
cá nhân mình trở nên chân chính và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Trái
lại, chỉ thu nhận toàn những kiến thức điêu ngoa gian trá thì cá nhân mình
đã hư hỏng mà xã hội cũng đến nguy cơ.
Hun
đúc cho trí tuệ bạn trẻ được sung mãn, rực rỡ là nhiệm vụ to tát của phụ
huynh. Những người nhịn ăn, nhịn mặc, dành để tài sản cho con cháu sau này
là thương con cháu đã đành; nếu không giáo dục về phần trí tuệ vẫn còn là
một khuyết điểm lớn. Có những người lưu lại sự nghiệp cho con, con chưa được
hưởng đã qua tay người khác, nên dành để tài sản chưa phải là kế vĩnh viễn
cho con cháu. Sự quan trọng và chắc chắn là trí tuệ; dạy dỗ cho con cháu
được trí tuệ chân chánh là kẻ làm cha mẹ biết nghĩ đến sự lâu dài cho con
cháu. Trí tuệ không ai có thể cướp được, cũng không ai lường gạt được, nó
lại soi đường cho mình, cho mọi người khỏi sa chân vào hầm hố, nên rất quí
báu.
Phụ
huynh đã có bổn phận với con cháu, thì những ông thầy há không có trọng
trách hay sao? Thế hệ trước đã qua, để lại cho thế hệ sau những tư tưởng,
những kinh nghiệm, kẻ làm thầy có bổn phận thâu nhặt những tư tưởng, những
kinh nghiệm ấy, rồi nhào nặn lại cho hợp thời, sẽ đem hun đúc vào tâm não
tuổi trẻ để được phát huy sáng tỏ. Kho tư tưởng kinh nghiệm của người xưa để
lại rất dồi dào phong phú, nếu kẻ làm thầy không chịu khó chọn lọc đem ra
dạy bảo học sinh cho kết quả, để đầu óc các bạn trẻ sau này rỗng tuếch, ấy
là tội rất to của kẻ làm thầy.
Tuy
thế, các bạn trẻ không nên ỷ lại cả vào phụ huynh, vào giáo sư, mà phải tin
tưởng vào phần tự lực, tự trau dồi trí tuệ cho mình. Ðành rằng nhờ sự chỉ
dạy của cha mẹ, sự hướng dẫn của giáo sư, nhưng phải cộng thêm sức cố gắng
của mình mới có kết quả. Nếu vô phúc cho một số các bạn nào, sớm không được
sự chỉ dạy của cha mẹ, và gần gũi thầy bạn, các bạn phải cố gắng gấp bội lần
hơn, để tự trau dồi trí tuệ cho mình.
Chúng
ta đã biết, có xác thịt mà không có trí tuệ thì ấy chỉ là một khối da thịt
biết ăn, biết mặc mà thôi. Người không trí tuệ khác nào kẻ lạc lõng trong
rừng đêm không trăng sao, không đèn đuốc, còn gì đau khổ bằng. Phật dạy: "Nỗi
khổ bị thiêu đốt ở địa ngục, nỗi khổ con lạc đà chở nặng, nỗi khổ đói khát
của loài quỉ đói chưa gọi là khổ, ngu si không biết lối đi mới thật là khổ."
Lẽ
đương nhiên muốn thoát khổ, chúng ta cần phải có trí tuệ. Nhưng trí
tuệ thế nào mới thoát khổ được? Đây là điểm quan trọng trong bài
này.
Bởi
vì có lắm người khôn ngoan mà gian trá, xảo quyệt, họ lợi dụng trí sáng suốt
của họ để lừa người, bịp chúng, nên càng khôn ngoan càng gây đau khổ cho
chính họ và tang tóc cho mọi người. Như Tào Tháo ở Trung Hoa thời xưa, sự
gian hùng của y đã làm cho bao nhiêu người thời ấy phải điêu linh tang tóc.
Trên lịch sử hiện đại còn biết bao nhiêu kẻ như thế và hơn thế nữa. Một khi
lừa bịp được người, họ càng hăng hái tự đắc mà quên cả tội lỗi đã gây. Nên
có câu: "Có học thức không có đạo đức là người ác..." Những kẻ như thế, ai
dám bảo họ là ngu? Nhất định họ là người có trí, nhưng là "TRÍ ÐIÊU NGOA".
Lại
một hạng người khôn nữa, họ thông minh lắm, học rộng nhớ nhiều, họ tưởng như
trí thông minh của họ không còn ai bì kịp, do đó đâm ra tâm khinh người ngạo
vật. Những người ấy coi trời đất bằng nắm tay, toàn cả người trong xã hội
bằng cây kim. Họ khinh tất cả và xem thường tất cả. Ði đâu họ cũng mang theo
cây cờ ngã mạn, gần ai họ chỉ gây sự bực tức cho người. Nếu ai gắng gượng
giới thiệu với họ: "Ông kia tài giỏi, người nọ đức cao...", thì chỉ nhọc một
phen bĩu môi của họ mà thôi. Hạng người này không tài nào khuyên dứt họ được,
như hòn đá cứng khó mong xông ướp được mùi thơm. Nhà văn Cao Bá Quát điển
hình cho nhóm người này, kết cục đời ông chỉ là:
"Ba hồi trống giục mồ cha kiếp,
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời!"
Trí
ấy gọi là " TRÍ KIÊU MẠN". Trí điêu ngoa, trí kiêu mạn nguy hiểm dường ấy,
tại sao người ta lại hun đúc nên nó? Ðiều này bởi nhiều lẽ:
*
Trước nhất là phụ huynh, phụ huynh chỉ muốn con em khôn ngoan, mà không giản
trạch cái khôn ngoan chân chánh, cái khôn ngoan tà ngụy. Cứ dồn hết vào đầu
óc non nớt ấy tất cả cái khôn ngoan ở thế gian, tưởng thế là thỏa mãn nhu
cầu của tuổi trẻ và sẽ trở nên hay. Ðâu ngờ đó là lối đầu độc trẻ con trong
lúc trí óc rất vô tư không biết chọn lựa. Như người kia cứ dồn cả thức ăn
vào dạ dày khi nghe nó đòi hỏi, mà không phân biệt thức ngon, dở, lành, độc,
kết quả rồi ôm bụng kêu đau.
* Kế
là thầy. Ông thầy không phải là cái máy phát thanh, cứ phóng hết những điều
mình đã thâu một cách vô tư, để mặc thính giả hiểu sao cũng được. Thính giả
của các ông là nhóm tuổi trẻ măng tơ đang bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa đời, như
khách bộ hành chưa thuộc đường, đang ngỡ ngàng đứng trước ngã tư, kẻ hướng
dẫn có bổn phận giải thích và hướng dẫn cho đến đích. Nếu để cho khách mặc ý
chọn đường thì làm sao bảo đảm được con đường chính đại.
* Rốt
sau là xã hội. Người trong xã hội phức tạp, nào tốt, nào xấu, nào lành, nào
dữ v.v... Những gương tốt lành lại hiếm, mà gương xấu dở lại nhiều. Như trăm
màu ngàn sắc vận hành trước mặt gương thì lạ gì phản ảnh trung thành của mặt
gương có trăm màu sắc. Ðầu óc của thiếu niên bị hun đúc bởi những tập quán,
tư tưởng, hành động của người trong xã hội, nên rồi họ trưởng thành theo cái
đà ấy - đà điêu ngoa, ngã mạn - rất dễ dàng hư hỏng.
Nói
thế, không phải là đổ trút mọi tội lỗi cho phụ huynh, thầy, người trong xã
hội, mà các bạn trẻ phải nhận lấy trách nhiệm quan trọng hơn cả. Giả sử phụ
huynh, thầy, bạn, người trong xã hội rất vô tư đối với sự giáo dục các bạn,
nhưng cũng tùy thuộc tính tình của các bạn mà hấp thụ điều hay, điều dở. Ví
dụ: thằng Nhân, thằng Tợn ngồi nghe ông cụ kể chuyện cổ tích "ông Thiện ông
Ác".Trong khi nghe, thằng Nhân yêu chuộng hành động của ông Thiện, trái lại
thằng Tợn thích việc làm của ông Ác. Và sau khi nghe, những hành động ấy vẫn
còn lảng vảng trong tâm não hai đứa trẻ. Như vậy, hai quan niệm sai biệt ấy
lỗi tại ai? Lại một thí dụ nữa: "Thằng Ái và thằng Bạo cùng đứng xem đứa trẻ
mục đồng bắn chim. Khi thấy chim bị trúng đạn, Bạo vỗ tay reo cười, ngược
lại Ái bùi ngùi thương hại." Ấy cũng cùng xem một hành động mà hai đứa bé có
cảm xúc khác nhau, lý do tại đâu? Nếu không phải ảnh hưởng tánh tình là gì?
Do đó sự hư hỏng của các em thiếu niên ngày mai, các bạn phải chịu trách
nhiệm một phần lớn, nếu không nói là tất cả.
Ðấy
là tướng trạng và lý do của trí điêu ngoa, trí kiêu mạn, còn phần trí tuệ
chân chánh là thế nào? Người có trí tuệ thì biết phân biệt lẽ chánh tà, biết
nhận định việc phải quấy và biết tôn sùng điều thiện, khinh chê điều ác. Trí
phân biệt ấy sẽ đưa ta xa tà gần chánh, bỏ ác theo lành, sửa quấy thành phải.
Nó là động cơ thúc đẩy con người từ hạng phàm phu tiến lên quả vị Hiền Thánh.
Nhờ trí này, người ta kiên quyết tìm phương pháp giải khổ cho mình và quả
cảm cứu giúp mọi người. Sự phát minh của các nhà khoa học, sự hy sinh cứu
đời của các đức giáo chủ đều do trí tuệ làm động cơ.
Trí
tuệ có công dụng chiếu tan những mây mờ giả ảo, bày tỏ chân tướng của vạn
vật ở giữa cuộc đời này. Như ngọn đèn sáng soi vào nhà tối, các vật trong
nhà đều hiện bày tỏ rõ. Nó cũng đủ công năng đưa người thoát vòng đau khổ.
Cho nên Phật dạy: "Trí tuệ là con thuyền đưa người qua bể khổ, là thứ
lương dược chữa lành mọi căn bệnh của chúng sanh, là chiếc búa bén chặt gãy
cây phiền não, là ngọn đèn sáng chiếu tan tất cả tối tăm." Nhờ trí tuệ
người ta mới thấu đạt chân lý, trở thành bậc giác ngộ.
Các
bạn trẻ, xin lỗi các bạn, có khi nào các bạn muốn người ta gọi mình bằng
thằng "lưu manh" hay đứa "xảo quyệt" chăng? Chắc hẳn là không. Các bạn có
muốn người ta mến mình như vị Hiền, quí mình như ông Thánh chăng? Chắc là có.
Vậy là các bạn ghét "trí điêu ngoa", "trí kiêu mạn" lắm rồi; các bạn đều tỏ
ra yêu chuộng "trí tuệ". Có lẽ các bạn đã băn khoăn tự hỏi phải làm sao để
được trí tuệ? Tôi xin góp ý kiến với các bạn.
Muốn
được trí tuệ, các bạn phải học Thánh giáo. Thánh giáo tôi muốn nêu ra đây là
kinh điển nhà Phật vậy. Chắc bạn cho tôi là quá chủ quan. Phải thế, thưa bạn,
tất cả kinh điển nhà Phật đều nhắm vào sự xây dựng trí tuệ làm căn bản. Như
vừa nghe hai chữ đạo Phật, bạn đã thấy ý nghĩa đó rồi. Chính đạo Phật là đạo
giác ngộ, cho nên toàn thể hệ thống giáo lý nhà Phật đều nhắm mục tiêu ấy.
Thái tử Tất-đạt-đa, sau khi giác ngộ dưới cội bồ-đề, mới được gọi là Phật,
tức là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhờ sự giác ngộ ấy, nên mỗi lời
Ngài phán ra đều thích hợp với chân lý.
Bạn
thử nghĩ, trước đây trên hai mươi lăm thế kỷ, đức Phật đã quả quyết tuyên bố
rằng: "Chúng sanh và thế giới là nhân duyên kết hợp mà thành." Câu
nói ấy đã phủ nhận tuyệt đối đấng Tạo hóa hay Thượng đế, trong khi khắp Á,
Âu người ta đều phủ phục và hiến dâng tất cả sanh mạng cho Thượng đế. Câu
nói ấy mãi đến ngày nay - thời đại nguyên tử - cũng không ai chối cãi được.
Những câu giá trị tương đương như vậy còn bàng bạc khắp trong biển giáo lý
của Ngài. Vì thế, bạn cần phải học, học để khai thông ý kiến chân chánh của
bạn.
Muốn
được trí tuệ, bạn phải gạt bỏ những thứ phiền não làm rối loạn tâm hồn bạn.
Phiền não tức là những thứ giận, hờn, thương, ghét, buồn phiền... Bạn có nhớ
chăng, mỗi khi bạn nổi cơn giận dữ thì trí khôn ngoan của bạn liền đó bị lu
mờ. Ðôi thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, họ sẽ mù quáng khi gặp hoàn
cảnh buộc phải lìa nhau. Khi bạn ghét ai, dù người ấy đưa ý kiến rất hay,
bạn cũng không thèm nghe. Ðó, bạn thấy chưa, phiền não nó che đậy khiến con
người mê tối, nên trước bạn phải gạt bỏ nó. Bạn sống thản nhiên và bình tĩnh
một chút là bạn sẽ thấy trí tuệ trở về với bạn.
Lại
nữa, muốn được trí tuệ, bạn phải lóng lòng trong sạch. Bạn có thấy không,
mặt nước hồ trong trẻo thì bóng trăng và vạn vật in hình. Tâm hồn ta yên
tịnh thì chân lý của vũ trụ sẽ hiện bày. Ðể tập cho tâm hồn yên tịnh, mỗi
tối trước khi ngủ, bạn ngồi yên chừng mười lăm phút để phản tỉnh tư tuởng và
hành động của bạn trong ngày qua. Nếu thấy có những cái dở, bạn phải cương
quyết chừa, nếu thấy có cái hay, bạn gắng sức phát triển. Thế là dần dần,
bạn sẽ phát sanh trí tuệ.
Còn
điều đại tối kỵ với trí tuệ mà bạn phải tránh, là rượu mạnh
và sự chơi bời trác táng. Rượu là kẻ thù số một của trí tuệ,
vì trí tuệ là do yên tĩnh phát sanh, mà rượu là thứ kích thích hỗn loạn. Bạn
thử thí nghiệm, khi uống vào một cốc rượu mạnh, bạn có thể giải được một bài
đại số khó hay không? Nếu muốn giải được, bạn cần phải yên tĩnh. Sự chơi bời
trác táng tai hại cũng tương tợ như vậy. Nếu muốn có trí tuệ, bạn phải cữ
hẳn hai điều này.
Các
bạn trẻ quý mến! Ðể kết luận bài này, tôi mong mỏi các bạn cố gắng thực hành
mới mong phát huy trí tuệ. Các bạn rất đủ điều kiện khai thác trí tuệ. Các
bạn hãy cố gắng lên, đừng để ngày tháng lững lờ trôi, cuối cùng các bạn vẫn
sống triền miên trong đêm tối. Các bạn đừng để phải hối hận như anh chàng
cùng tử kia mang sẵn trong chéo áo một viên ngọc quý, mà mãi lang thang đầu
làng xó chợ xin ăn, đợi có người biết đến chỉ, mới sực nhớ đem dùng. Muộn
lắm chăng!
Thích Thanh Từ |