Khái Quát Nội Dung Tư
Tưởng Phật Giáo Thời Lý
Thích
Thông Thức
Đạo Phật là tôn
giáo luôn đề cao hòa hợp, đoàn kết trên tinh
thần giải thoát và giác ngộ của con người, nên
khi truyền đến dân tộc nào cũng tùythuận để
thích nghi với văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc
đó. Đấy là tínhdung hợp, uyển chuyển và năng
động của Phật giáo. Lịch sử Phật giáo Việt Nam
giai đoạn Lý – Trần đã thể hiện rõ nét nhất tính
dân tộc. Bên cạnh đó,chịu ảnh hưởng của giáo lý
Đại Thừa nhất là Thiền Tông và Mật Tông, nênPhật
giáo Việt Nam vừa mang tính siêu nhiên vừa mang
tính hiện thực.
Thời Lý, Mật Tông
và Thiền Tông là hai yếu tố chính của Phật
giáo.Mật Tông đóng vai trò tích cực trong việc
xây dựng và bảo vệ nền độc lập,nhưng trong suốt
tiến trình lịch sử thì Thiền Tông mới là yếu tố
chủ đạo,mang tính bao trùm, ảnh hưởng mạnh mẽ
mọi hoạt động của Phật giáo thời đó.
Mật Tông là một
Tông phái của Phật giáo, sử dụng thần chú trong
quá trình thực nghiệm tâm linh. Hai bộ kinh Tinh
Xá Đầu Voi và Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì là
cơ sở quan trọng của Mật Tông với hương pháp tu
luyện là sáu thời sám hối. Theo Lê Mạnh Thát:
“Ngày đêm sáu thời sám hối các trọng tội do các
nghiệp thân miệng ý gây ra. Kinh đồng thời
cũngxác định đây cũng là phương pháp do chính
đức Thế Tôn thực hiện. Phương pháp này về sau đã
có những hoạt động mạnh mẽ lên sự phát triển của
tưtưởng Thiền Học Việt Nam”[1,II.Tr.82]. Pháp
môn này được Thiền Sư PhápThuận (925 – 995) viết
Bồ Tát Hiện Sám Hối Văn mà Thiền Uyển Tập Anh đã
ghi lại, và Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277)
viết Lục Thì Sám HốiKhoa Nghi. Điều này minh
chứng từ Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Pháp Hiềnkhông chỉ
xuất phát và truyền thừa phương pháp sám hối mà
còn phát triểnMật tông Thiền Uyển Tập Anh viết
rằng:“Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Pháp Hiền đọctụng chú đà
la ni là tu luyện pháp môn tam muội, khi Thiền
sư Ma Ha đến cầu pháp Thiền sư Pháp Thuận, sư
chuyên việc sám hối và trì tụng đại bitâm chú
trải ba năm chưa từng một chút biếng trễ ….Tổng
trì tam muội vàảo thuật, người đời không lường
nổi”[2,Tr. 263]. Yếu tố Mật tông này đượcThiền
sư Đạo Hạnh ( ? – 1117) duy trì và phát triển.
Thời kỳ này đã
xuất hiện nhiều vị thiền sư dùng Mật Tông trong
việccứu đời như sư Vạn Hạnh(? - 1025 ):“ Chuyên
tập pháp môn tổng trì tam mađịa. Viên Chiếu (999
– 1090) sâu rõ ngôn ngữ tam muội giảng thuyết
lưuloát Tổng trì tam ma địa cũng có tên khác là
Đà la ni tam muội”[1,Tr.84].Điều này được Nguyễn
Duy Hinh khẳng định “Rõ ràng tư tưởng Mật giáo
cực thịnh trong khoảng thế kỷ XI – XII, trong
các nhà sư Sơn Môn Kiến Sơ cũng như Môn Dâu”[3.Tr.431]
Các vị Thiền sư đã sử dụng một loạt ngôn ngữ
huyền bí(thần chú) để thể nghiệm tâm thức và
khơi dậy tuệ giác vốn cócủa con người, bằng
phương pháp đó, họ phục vụ cho cộng đồng.
Trong khi đó,
Thiền có vai trò rất quan trọng với Phật giáo
trong giaiđoạn này. Theo tự điện Phật Học Hán
Việt: Thiền là “Thiền Na nghĩa tịch tĩnh thẫm lự
là để tâm chuyên chú vào một cảnh, vào một đối
tượng, lấy tịch tĩnh để thấu rõ tư duy, đạt tới
trạng thái Định – Tuệ quân bình”[4,Tr.1271].Theo
định nghĩa trên, có thể thấy thiền là một phương
pháp để đi đến giác ngộ. Thực tập thiền là một
công đoạn, một phương tiện, là điều kiện ban đầu
để nhận chân thật tánh. Bản chất của thiền là
giác ngộ, là thực nghiệm tâm linh, là “dĩ tâm
truyền tâm” nên thiền phải chứng nghiệm bằng
trực giác và bằng sự ổn định của tâm thức,“chính
tinh thần ấy, là nguồn động lực của vũ trụ, mà
cũng là dòng hoạt dụng của tâm linh”[5.I.Tr.84].
Như vậy, hiểu và sống được thiền là nhìn thấy sự
vật hiện tượng một cách như thật qua các phạm
trù vô thường, vô ngã, vô trụ, chân như. v.v...
Khi các vị Thiền sư đạt đến trình độ này, họ
không còn bị ràng buộc tư duy hữu ngã, mà đã trở
về cội nguồn vốn có trong tâm thức, thấy được
Phật tính tức là giác ngộ, “Thiền khai phóng tất
cả năng lượng nội tại và tự nhiên tích tập trong
mỗi con người chúng ta, nguồn năng lực ấy, trong
hoàn cảnh thường, bị co rút lại, và vặn tréo đi,
đến không vùng thoát đâu được”[5.I.Tr.9]. Thiền
đứng trên nguyên tắc: “Bất lập văn tự, giáo
ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm,kiến tánh
thành Phật”. Chính vì “Bất lập văn tự” nên
chúng ta không thể dung phương pháp quy nạp,
diễn dịch hay logich ngôn ngữ để xác định rõ về
nội tại của người chứng ngộ. Dưới cái nhìn của
vị Thiền sư, bản thể tuyệt đối của các sự vật
hiện tượng là phi khái niệm. Cho nên sự nhận
thức bản thể ấy chỉ có thể bằng trực giác, bằng
sự chiêm nghiệm khai mở chân tâm của con người.
Vì vậy, Thiền chỉ
thực sự tồn tại khi có người biết tiếp cận vận
dụng trong cuộc sống. Nếu không có con người
sống thiền thì thiền chỉ là vỏ bọc của lý thuyết
suông, giáo điều. Sức sống của thiền chính là sự
khoang dung – lợi lạc – vị tha. Sau khi
chứng ngộ, người tu hành không những sống trọn
vẹn với bản thể chân như của mình mà còn tích
cực phụng sự chúng sanh, không còn xem nặng cái
ta vị kỷ mà hành động cho mọi người. Sống thiền
là vừa tròn trách nhiệm của một người công dân
của đất nước, vừa khéo sống với “con người
thật” của chính mình. Người chứng ngộ thiền
là thể nhập vào hơi thở của cuộc sống cộng đồng.
Điều này, thời Lý
đã thể hiện các Thiền sư thể nghiệm, đem lại lợi
ích cho dân tộc và phát triển Phật giáo, như
Suzuki viết: “ Nếu Phật giáo là một tòa nhà xây
dựng trên căn bản của lý giác ngộ do Phật tự
chứng và đã hoàn tất con người của Phật, thì dĩ
nhiênThiền là cột trụ trung ương chống đỡ toàn
cơ cấu. Thiền là trực hệ củatruyền thống Phật
giáo thừa tiếp giác tâm của Phật”[5,I, Tr.67].
Vì vậy,Phật giáo thời Lý vừa mang những nét
chung của Phật giáo vừa có những đặc trưng của
Thiền tông. Đó cũng là đặc điểm Thiền tông Việt
Nam nói chung.
Nhiệm vụ của Phật
giáo trong giai đoạn này là vừa đưa tinh thần
giải thoát giác ngộ vào xã hội, vừa phát huy khả
năng nội tại của con người, từ đơn vị cá nhân
tiến vào cộng đồng. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ
của Thiền là khai phóng năng lực vốn có trong
thực tại. Đấy “chính là uy lực của trực giác sở
hữu của tâm, có khả năng phóng chiếu vào thực
tại của tâm linh”[5,I. Tr.82].Về mặt quốc gia
Phật giáo góp sức xây dựng hào khí dân tộc và
khẳng định địa vị làm chủ đất nước của dân ta.
Vào giai đoạn thời
Lý, các vị Thiền sư sử dụng phương pháp Mật tong
dung hợp với tính ngưỡng bản địa thông qua sấm
vĩ để giúp đời. Đồng thời vận dụng phương pháp
Thiền Công án trong quá trình tu hành.
Về phương pháp
Công án xuất hiện lần đầu ở Việt Nam, được thể
hiện khi Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi gặp Pháp Hiền
ở chùa Pháp Vân. Thiền sư nhìn thẳng vào Pháp
Hiền hỏi rằng:
“ ‘Ngươi họ gì?
Sư đáp: Hòa Thượng
họ gì?
Thiền sư hỏi:
Ngươi không có họ sao?
Sư đáp:Họ thì
chẳng không,Hòa Thượng làm sao biết được?
Thiền sư hỏi: biết
để làm gì?
Sư bỗng nhiên tự
tĩnh, liền sụp xuống lạy. Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi ấn
chứng, từ nay về sau Sư luôn luôn theo hầu Tổ”[6,Tr.19].
Đây chưa phải là
loại Công án điển hình như những công án “truyền
thống” của Thiền tông Trung Hoa nhưng cũng
thể hiện được sự ảnh hưởng của phương pháp “
dĩ tâm truyền tâm” đặc thù của Thiền tông
Trung Quốc trước thời Huệ Năng. Đến thời Thiền
sư Viên Chiếu(999 – 1090) hầu hết Thiền sư
chuyên tụng kinh Viên giác mà thực hành phương
pháp này mà tỏ ngộ. Đây cũng là giai đoạn mà
Thiền Công án hình thành rõ nét nhất. Thí dụ như:
“ Có Tăng hỏi:
Phật và Thánh nghĩa ấy thế nào?
Sư đáp: Cúc trùng
dương dưới dậu, oanh thục khí đầu cảnh.
Lại hỏi: Cảm ơn
những người học này không hiểu xin thầy dạy lại;
Sư đáp:Ngàythì ác
vàng dọi, đêm đến thỏ bạc soi”[2,Tr,186]. Điểm
đặc thù của công án là chỉ người trong cuộc mới
hiểu rốt ráo, vì một công án thường chỉ có tác
dụng với một đối tượng cụ thể, trong khi với
những người khác nó hoàn toàn vô nghĩa, có khi
là vớ vẩn. Bởi vì, muốn thể nhập vào công án,
thì người hỏi phải đặt vấn đề họ nghi ngờ, suy
nghĩ, mục đích tạo ra điều kiện để trả lời có
hiểu quả về nắm bắt bản chất thực của sự vật,
nghĩa là cái bất động trong cái động. Vì vậy,
Thiền sư có nhiệm vụ dẫn dắt các Thiền sinh vào
đạo là phụ thuộc vào điều kiện, tâm lý, phong
tục hay kiến thức để khai mở cội nguồn chân tâm
của con người. Nhưng phương pháp công án của các
Thiền sư Việt Nam thông qua Ngữ Lục của Thiền
Tông Trung Quốc mô phỏng lại, đưa phương pháp đó
vào đời sống của nhà Thiền.
Tóm lại, phương
pháp công án thời Lý mới xuất hiện sơ khai,
nhưng đến thời Trần phát triển đi vào cao trào.
Tuy nhiên, lối công án chỉ dành riêng cho người
có trình độ tri thức cao mới thực hiện, nghĩa là
chỉ phù hợp với hạng thượng căn thượng trí.Từ đó,
Thiền có rất nhiều phương pháp tu luyện mang
tính đại chúng hơn.
Về phương pháp sám
hối. Sám hối là hình thức cầu nguyện theo nghi
lễ Mật tông. Ý nghĩa của sám hối là mượn hình
ảnh của đức Phật bên ngoài để trở về với vị Phật
bên trong của mỗi người “Từ Phật cho ta đến
Phật tự ta”. Nhưng khi phương pháp này hòa
nhập vào tín ngưỡng bản địa, thì ý nghĩa đó
không còn được giữ nguyên mà vị Phật “bên
ngoài” đã trở thành một đấng quyền năng. Do
vậy, sám hối trở thành phương pháp cầu nguyện có
hai mục đích. Một là, hành vi và suy nghĩ không
lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Hai là, ước
nguyện sự thành tựu ở tương lai, nghĩa là nương
nhờ sự phù hộ, giúp đỡ những việc mà mình chưa
đạt được kết quả. Như vậy, việc cầu nguyện phù
hợp với tín ngưỡng bình dân. Trong khi đó, Thiền
căn cứ vào khả năng của chính mình, kết quả đạt
được là ngay trong hiện tại.
Thế nhưng trong
tinh thần nhập thế, Thiền không thể tồn tại và
phát triển nếu không chấp nhận những yếu tố tín
ngưỡng trước đó. Vì vậy, Thiền trong đời sống
dân gian mang những đặc trưng của tín ngưỡng
bình dân là một điều dễ hiểu. Đây cũng là nét
đặc thù của Thiền Tông Việt Nam.
Nhìn chung, các vị
Thiền sư lúc này phải hội tụ đủ hai yếu tố là
tri thức để hướng dẫn tầng lớp thượng lưu và sử
dụng quyền năng để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
quần chúng. Như vậy, họ vừa thể hiện lý tưởng
giác ngộ, vừa phụng sự dân tộc. Nói cách khác,
Phật giáo trong giai đoạn này, vừa giữ vai trò
hướng dẫn tầng lớp thượng lưu bằng triết lý đại
thừa vừa sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo trong
quần chúng nhân dân. Hơn nữa, Phật giáo không
những đóng vai trò góp phần thiết lập niềm tin
tâm linh trong cộng đồng mà còn đóng góp xây
dựng cơ sở lý luận trong quá trình chủ quyền
quốc gia.
Chicago, Cuối Thu
2007
THÍCH THÔNG THỨC
Tài
Liệu Tham Khảo
[1]. Lê
Mạnh Thát (2001), Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam,
tập II, từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông
(1054), Nxb, Tp, Hồ Chí Minh
[2]. Lê
Mạnh Thát (1999). Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập
Anh, Nxb,Tp. Hồ Chí Minh.
[3].
Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư Tưởng Phật giáo Việt
Nam, NxbKHXH, Hà Nội.
[4]. Viện
Nghiên Cứu Phật Học (2004), Từ Điển Phật Học Hán
Việt, Nxb Khoa Học
[5].D.T
SuZuKi (2001), Thiền Luận (quyển thượng), Nxb Tp
Hồ Chí Minh (Trúc Thiên dịch)
[6]. Thích
Thanh Từ (PL2535 – 1992) Thiền Sư Việt Nam, Nxb
Tp,Hồ Chí Minh |