CHỚP MẮT SINH TỬ
Con đường dù đã được tráng
nhựa thật tốt vẫn cứ là con đường của sa mạc với nhiều đoạn nhấp nhô, ngoằn
ngoèo nương theo độ dốc của trùng trùng đồi núi. Gần một giờ đồng hồ, chiếc
xe chạy tốc độ một trăm hai mươi kí-lô-mét mới vượt hết vùng sa mạc hừng hực
bỏng cháy. Lác đác đâu đó dưới chân những ngọn đồi trọc có niên đại hàng mấy
chục triệu năm, hoặc trên những bãi cát vàng mênh mông, là dấu vết để lại
của những dòng nham thạch đen tuyền.
Nơi này, triệu triệu năm trước
là biển; chỗ kia, triệu triệu năm trước là sông. Những ngọn núi lửa đã tắt
ngấm từ mấy chục triệu năm trước. Nước biển đã từng dâng lên ở những khoảng
này. Sóng biển đã từng vỗ lên ở những bờ đá kia. Có lẽ đã từng có ghe thuyền
qua lại nơi đây. Có lẽ đã từng có những làng mạc hay bộ lạc nào đó định cư
chỗ này. Cũng có thể không hề có bóng dáng con người sinh hoạt trên một vùng
chỉ thấy đá tảng và cát vàng trải rộng mênh mông.
Các nhà địa chất, nhân chủng,
sinh vật, xã hội học… thời nay, hẳn đã từng nghiên cứu và đưa ra những ước
đoán, giám định hoặc kết luận nào đó về đời sống của con người, muông thú,
và thực vật nơi vùng này từ hàng triệu năm trước. Nhưng tài liệu sách vở của
họ không liên hệ gì với người lái xe băng qua sa mạc vào một buổi trưa đứng
bóng. Chỉ có chiếc xe phăng phăng phóng tới, và con đường trước mặt như cuốn
nhanh vào ở mũi xe. Chung quanh, trùng trùng những ngọn núi cổ sậm màu gạch
và ở trên, vẫn là trời cao xanh ngát dợn một vài đám mây trắng nhỏ bềnh bồng.
Tài liệu, chứng liệu lịch sử,
cũng không gì thực bằng những lùm cây bụi cỏ bên đường và trong những hốc đá,
cũng không gì thực như viên sỏi nhỏ hay những hạt cát vàng trên tay. Ở nơi
trời đất mênh mông với chứng tích của đồi núi cổ đại, mới cảm nghiệm nỗi
lòng của Trần Tử Ngang ngày xưa. Thường khi, cái mênh mông của không gian
gợi cho mình cái mang mang của thời gian, hoặc ngược lại, nghiệm về cái vô
cùng của quá khứ tương lai mà cảm cái vẻ vô hạn của mười phương đất trời.
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.”
(Trần Tử
Ngang)
Ngoảnh trước người xưa không
thấy
Ngoái sau người mới chưa sinh
Nghiệm lẽ mang mang trời đất
Bất chợt lệ sa một mình.
(Vĩnh Hảo tạm dịch)
Trong cái vô tận của không
gian và thời gian, thấy đời mình nhỏ nhoi như hạt bụi. Ba mươi năm, năm mươi
năm, một trăm năm, có nghĩa gì đâu. Hàng hàng lớp lớp những núi đá bên đường
đã có mặt từ nhiều triệu năm trước. Sau lưng, trước mặt, là cái mịt mùng sâu
thẳm của bóng thời gian. Cuộc sống trăm năm, xem lại thì chỉ là một chớp mắt
trong dòng biến dịch hun hút không cùng của lũy kiếp luân hồi sinh-diệt,
diệt-sinh. Một chớp mắt có là bao mà kết thu cả nghìn trùng khổ lụy, hạnh
phúc, hận thù, yêu đương, đấu tranh, an phận, nỗ lực, mỏi mệt, tự ái, tự
trọng, tự vệ, tự đại, tự vấn, tự do (nói năng, khóc, cười, im lặng, sáng tạo
và suy tư)… Mới hôm nào còn ngồi trên bãi biển nhìn ngắm những con tàu xa
khơi, ước mơ một chuyến hải trình đi khắp những đại dương bát ngát và các
lục địa xa xôi. Nhìn cánh chim bay, ngắm áng mây trời, mơ ước từng ngày theo
gió cuốn đi. Tuổi thơ vụng dại chỉ biết làm bạn với biển xanh và cái gì cao
rộng. Biển chưa đủ sâu. Trời chưa đủ rộng. Lòng thành ấu thơ dâng hết cho
thiền môn thanh vắng. Ê a kinh kệ sớm hôm. Xào xạc mỗi ngày quét lá. Tương
chao thấm nơi xương tủy. Áo vải bảo vệ thân, tâm. Tiếng chuông ngân lời tỉnh
thức. Đèn tuệ khơi sáng đêm ngày…
Rồi cũng chưa đầy chớp mắt của
cuộc tồn sinh mộng ảo, thương sinh linh thống khổ điêu tàn, có khi phải đốt
thân cho chánh pháp cửu trụ, có khi phải dấn mình vào chỗ ngục tù lao lung,
có khi phải ẩn nhẫn để bảo vệ Đạo Vàng trong thời buổi nhiễu nhương.
Động-tĩnh, tiến-lui, im lặng như núi tảng, gầm thét như hải triều, đều chỉ
vì đại nguyện hoằng truyền đạo lớn. Lau bát nhang đầy bụi, quét một sân ngập
lá, kinh kệ sớm chiều, đi đứng nằm ngồi có lúc nào rời khỏi cội nguồn chân
tâm! Trong cái chớp mắt của sinh tử, làm tất cả phật-sự mà không động khởi
một niệm vấn vương thủ đắc. Những thăng-trầm, vinh-nhục, còn-mất, được-thua,
chẳng qua chỉ là bọt nổi trên mặt đại dương tịch lặng bao la. Cuối đời
ngoảnh lại, vẫn chỉ là hai bàn tay không của người hương đăng, quét lá. Một
chớp mắt hay một chuỗi dài mộng mị trăm năm, đã làm được gì, chưa làm được
gì? Cái làm được có mang lại lợi lạc cho mình cho người, cho sự hưng thịnh
của chánh pháp không, hay chỉ là những vọng động nhất thời làm tổn hại tín
tâm của đồ chúng, dìm đạo lớn vào chỗ lụn tàn suy vi?
NGÀY VỀ NGUỒN
Thao thức gì mà đêm đêm chong
đèn không ngủ? Đau thương gì mà lệ nóng chực rơi? Đạo pháp suy vi đâu phải
chỉ vì tà ma ngoại đạo quấy phá! Sư tử trùng đục khoét còn bi lụy trầm thống
gấp trăm. Hai nghìn năm chưa phải là dài đối với vô lượng kiếp huân tu. Ba
mươi năm hoạn nạn lại càng ngắn ngủi hơn. Nhưng một chớp mắt mê mờ có thể
chôn vùi cả nghìn năm của lịch sử hoằng truyền chánh pháp. Còn gì, mất gì?
Nửa khuya thức dậy, xông trầm đốt hương, khoác ca-sa mà nhớ lời nguyền ban
sơ, tụng câu kinh không khỏi tâm tư bàng hoàng chấn động.
“Hủy hình thủ chí tiết
Cát ái từ sở thân
Xuất gia hoằng Phật đạo
Thệ độ nhất thiết nhân”
Từ bỏ dáng đẹp nêu nguyện lớn
Xa lìa cha mẹ, xa người thân
Xuất gia giốc lòng truyền Phật
đạo
Đời đời kiếp kiếp độ quần sinh.
(Vĩnh Hảo tạm dịch)
Lịch sử không phải lúc nào
cũng một đường thẳng tắp. Mà thường khi là khúc đường xuống lên của vinh
quang và khổ nhục. Có khi là sự uốn lượn của con đường ngoằn ngoèo vượt qua
những chập chùng oan khiên. Máu rơi. Lệ đổ. Thầy-trò, huynh-đệ chung một
màu áo, cùng một đức điều-ngự bổn sư, vì nguyện rộng mà xuất thế ly gia
hoằng truyền chánh đạo, không lẽ vì những đảo điên nhất thời của thế cuộc mà
tổn hại nhau, chia lìa nhau? Hơn ba mươi năm, như những giòng sông chia
nhánh, chảy qua những đồng bằng hay len lỏi qua hốc đá cheo leo. Lớn-nhỏ,
đục-trong, cũng là tùy nhân duyên mà tuôn chảy. Không có chân lý tuyệt đối
của giòng sông. Cũng không có gì gọi là chính danh, hay chính nghĩa độc tôn
của các phương tiện. Chỉ có chánh pháp tối thượng khai mở con đường viễn ly
xuất thế, đoạn trừ phiền não, chứng ngộ giải thoát. Xa lìa thật nghĩa của
chánh pháp mà bày vẽ phương tiện thì chỉ là chắp vá vô hồn lạc điệu của
ngoại đạo tà ma.
Hơn ba mươi năm qua, những
giòng sông càng lúc càng khô cạn, đẩy đưa những con thuyền lớn-nhỏ đi vào
tuyệt lộ hoặc chơ vơ mắc cạn trên sa mạc hoang vu khô khốc. Vét đáy, khơi
nguồn, là nỗ lực để mở hướng cho sông, và cho thuyền về nơi biển lớn. Ở nơi
chỗ tận cùng của chia lìa, suy vi, tất phải mở mắt vươn mình đứng dậy. Lịch
sử đóng lại hay mở ra, chẳng qua chỉ là sự mấp máy chuyển động của trùng
trùng nhân duyên tương sinh tương diệt; mà trên tất cả những biến động, chấp
tranh, tồn-vong, thăng-trầm ấy, là sự bất khả hoại diệt của Phật tâm, của
chánh pháp, và của bản thể thanh tịnh hòa hợp của Tăng đoàn.
Sông có thể khô cạn nhưng biển
lớn hãy còn đó. Hướng đi của Phật giáo tùy thuộc nơi sự cất bước một cách
trí tuệ, dũng mãnh và từ bi của Tăng đoàn. Tăng là đại hải thanh tịnh, là
chỗ nương của thất chúng, là ngõ về của muôn sông. Không có giòng sông đúng
hay sai. Không quan trọng giòng sông lớn hay nhỏ. Cũng không miễn cưỡng trăm
sông phải thống hợp thông thương. Chỉ cần làm sao, mỗi giòng sông phải cưu
mang bản thể thanh tịnh và hòa hợp của biển lớn.
Ngày Về Nguồn
là dấu hiệu khởi đầu cho sự trở về của trăm sông vào biển lớn. Một khi biển
lớn mở ra, chắc chắn tà ma ngoại đạo và những ác đảng đều sẽ ra sức cản ngăn,
chống phá, xuyên tạc. Nhưng với niềm tin bất hoại đối với Tam bảo, người con
Phật khắp nơi đều hân hoan khấp khởi, kỳ vọng nơi sự kiên trì, dũng mãnh,
sáng suốt và đạo tình gắn bó của những trưởng tử Như Lai để có thể mở ra lộ
trình cao đẹp của Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại.
Vượt trên tất cả những danh
xưng và tổ chức, vượt trên tất cả những đối nghịch mâu thuẫn nhất thời của
trăm sông trong dòng huyễn dị cuộc đời, xin hãy vì sự hưng long của Phật
Pháp, vì lòng mong đợi của hàng phật-tử khắp năm châu, hãy cất những bước đi
của voi chúa, dẫm trên gai góc và bùn nhơ thế gian để mở hướng cho tương lai
sáng ngời của Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ mới.
Được vậy thì, một chớp mắt phù
du cũng có thể mở toang cánh cửa vô tận cho người sau noi dấu, và cho sự lợi
lạc của khắp muôn loài chúng sinh.
Arizona, ngày 10 tháng 9
năm 2007
Vĩnh Hảo

Kính lạy Bồ tát Quán Thế Âm - vị Bồ tát có
trái tim biết nghe và biết hiểu!
Hồi còn là một cậu học trò tiểu học, con đã
học thuộc lòng câu ca dao:
“… KHÔN NGOAN ĐÁ ĐÁP NGƯỜI NGOÀI,
GÀ CÙNG MỘT MẸ CHỚ HOÀI ĐÁ NHAU…”
Ngày đó con chẳng hiểu hết ý nghĩa câu này,
chỉ biết học thuộc để trả bài và lấy điểm. Lớn lên càng đi xa con càng cảm
thấy thấm thía vô cùng mỗi khi đọc lại nó, nhất là những lúc… như lúc này.
Vâng! Cuộc đời này chúng con đã học thuộc lòng
rất nhiều bài học, nhưng để hiểu, để thể nghiệm và để nhìn thấy những gì
chúng con đã và đang học diễn ra trong cuộc sống này thật không đơn giản!
Thế gian đang rất cần những giọt cam lồ… để
tưới mát tâm hồn, để con người biết nhìn và ngồi lại với nhau!
Cung kính đảnh lễ Ngài!
Con,
Lê Bích Sơn
|